LƯƠNG AN
Vào đầu năm 1842, lúc tháp tùng Thiệu Trị ra Hà Nội nhận sắc phong của vua nhà Thanh, Miên Thẩm đã ở lại đất "cựu đế kinh" gần hai tháng và đi thăm nhiều nơi.
Ảnh: tư liệu
Qua các cuộc đi thăm ấy, cảnh trí xinh đẹp và các nhân vật nổi tiếng của vùng Hồ Tây đã lôi cuốn tâm hồn và để lại trong tập "Bắc hành" của ông nhiều bài thơ được các danh sĩ đương thời tán thưởng, mà chùm thơ "Long Biên" viết theo thể trúc chỉ là một. Trong 14 bài của chùm thơ này, điều lý thú là ông đã dành đến hai bài viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Sau đây là hai bài tứ tuyệt ấy:
Bài 8
Tịnh đầu liên hoa khai mãn trì
Hoa nỡ chiết khứ cung thần tì (từ)
Mạc hướng Xuân Hương phần thượng quá
Tuyền đài hữu hận thác khiên ty.
Bài 9
Trụy phân tàn chi thổ nhất doanh
Xuân Hương quy khứ thảo thanh thanh
U hồn đáo để kim như túy
Kỳ độ xuân phong xuy bất tinh.
Dịch:
Hoa sen chung cọng đầy hồ
Cô hầu đẹp hái về thờ điện trang
Xin đừng qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn hận lầm đường tơ duyên
***
Son thừa phấn đổ, đất vùi
Xuân Hương đi, nấm cỏ phơi xanh rờn
U hồn giờ vẫn mê man
Gió xuân mấy độ chẳng tàn cơn say
Tuy chỉ tám câu, hai bài thơ vẫn cung cấp cho chúng ta một số tư liệu về cuộc đời "bà chúa thơ nôm" và biểu hiện tấm lòng thương xót sâu sắc của nhà thơ hoàng tộc này đối với nhà thơ nữ hơn hẳn đời về tài năng nhưng lại thua sút đời về duyên phận ấy.
Với việc Miên Thẩm đến vùng Hồ Tây và có lẽ đã nhìn thấy ngôi mộ của Hồ Xuân Hương, chúng ta có thể xác định bà đã mất trước năm 1841 và như thế là bà không thể nào là người "sống dưới thời Tự Đức" như bài Xuân Đường đàm thoại công bố trên Tạp chí Văn học tháng 3-1979 đã nói. Nếu tập thơ Thương Sơn, như chúng ta đã biết, đã ghi rõ thời điểm sáng tác từng bài, đến độ có thể đáp ứng được một số điểm trong công việc nghiên cứu lịch sử văn học đương thời, thì hai quyển Bắc hành còn được tác giả gọi là "những tiếng trống ghi từng dặm đường" (ký lý cổ), do đó sự việc Hồ Xuân Hương đã mất trước khi Miên Thẩm đến Hà Nội là điều hoàn toàn không còn hồ nghi. Đáng tiếc là vì ông làm thơ chứ không phải nghiên cứu văn học sử cho nên chỉ dùng chữ "kỷ" (mấy) để nói khoảng cách giữa hai thời điểm, khiến chúng ta không thể tính được chính xác năm mất của bà. Dầu sao, với chữ "mấy" thường chỉ một độ cách chưa lâu dài lắm, vẫn có thể nghĩ rằng bà mất vào khoảng trong 5 hoặc 7 năm gì đó cuối đời Minh Mạng.
Về con người Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm nhìn thấy cỏ mọc xanh biếc trên mộ bà mà cho rằng bình sinh bà uống rượu nhiều. Nhưng đây không chỉ là cách suy nghĩ rất thơ rượu của các nhà thơ thời trước, rằng những người tài hoa lúc còn sống uống nhiều rượu thì khi chết, trên nấm mộ cỏ xanh và hoa thơm sẽ tràn đầy. Bởi vì chính phía trên bài thơ có câu còn ghi rõ: "nghe nói Xuân Hương khéo nhờ rượu mà buông phóng được ý chí" (văn đạo Xuân Hương thiện sử tửu). Lời ghi này cũng như lời thơ không mang một ý định chê trách, mà trái lại, là một sự đồng tình với cái ý chí được buông phóng, tức là với cái táo bạo, cái thách đố, với cái đanh đá có lúc đến suồng sã không dễ gì có của Hồ Xuân Hương trong thơ và cả trong cuộc đời. Miên Thẩm còn đi xa hơn trong sự đồng tình này, ông cho rằng cái ý khí ấy, cái phong cách thơ ấy, bà mất rồi nó vẫn còn nguyên vẹn, không như son thừa phấn đổ mà vượt lên cái chết để trở thành một màu tươi xanh với đời và cho đời mãi mãi.
Một điểm đáng ghi nhận nữa qua hai bài thơ, đó là niềm thương cảm của Miên Thẩm đối với duyên phận hẩm hiu của nữ sĩ. Từng sống bao nhiêu năm bên Hồ Tây, một mặt hồ đầy sen tịnh đầu (hai bông chung một cọng, biểu hiện cuộc sống vợ chồng đẹp đôi, yên ấm, song Hồ Xuân Hương không có được cái diễm phúc đáng lẽ phải có của phong thổ và cuộc đời chưa hạn hết tình thương dành cho, khiến những lời thơ oán trách bất hủ cất lên lúc còn sống như cũng theo người thành một mối căm hờn chôn chặt dưới mồ. Thương xót một kiếp tài tình mà phận bạc, Miên Thẩm chỉ mong sao mối hờn ấy không còn được khơi dậy dưới tuyền đài để rồi linh hồn bà sẽ được nghìn thu yên nghỉ trong sự nguôi quên. Ông đã đến với Hồ Tây, với Hồ Xuân Hương bằng một tấm lòng trong sáng và đầy tình người như thế.
Đọc hai bài thơ ngắn của ông, biết ông là một ông hoàng chưa ra khỏi cung điện, đầu óc còn đầy tư tưởng phong kiến lạc hậu, vậy mà lại không thành kiến với thơ nôm, nhất là biết thương cảm nỗi bực bội với đời, hơn thế nữa, còn khen ngợi cái táo bạo, cái cá tính độc đáo của con người và thơ Hồ Xuân Hương, mới thấy rõ cái phẩm chất nhà thơ trong ông thật là đáng quý mến. Đã mấy nhà thơ thời ấy dám như ông hay được như ông?
L.A
(TCSH55/05&6-1993)
NGÔ MINH
Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.
“Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.
Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.
Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.
Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.
Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.