HOÀNG NGỌC HIẾN
(Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp)
Ảnh: internet
![]() |
Với tập truyện Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp được nhìn nhận là một tài năng mà ngay cả những người chỉ trích Thiệp gay gắt cũng không có ý định phủ nhận. Có những trường hợp sự nhìn nhận hết sức dè dặt, kèm theo bĩu môi: văn của Thiệp có tính chất cinique, tác giả không có tâm, đọc truyện của Thiệp cảm thấy ghê ghê… Tôi nghĩ rằng không phải tất cả những lời khen đều là ưu ái với Thiệp và lời chê chưa hẳn là ác cảm với anh.
Chữ tâm trong văn học - đó là lòng nhân ái và sự thành tâm với con người.
Lòng nhân ái truyền thống có thể gói gọn trong một câu “Hãy thương yêu người đồng loại” nhưng lòng nhân ái hiện đại - cũng như những tình cảm hiện đại khác - chứa chất nghịch lý: “Không được thương con người” nhưng “không thể không thương con người”. Ngòi bút trào phúng của Nguyễn Huy Thiệp vừa tàn nhẫn, vừa xót xa. Tàn nhẫn có nghĩa là “không được thương con người”, đây là mệnh lệnh của lương tâm và của tác giả đã đi đến cùng phơi bày sự đốn mạt của con người. Nhưng cuối cùng thì vẫn cứ xót xa “không thể không thương con người”.
Ngay ở những nhân vật đốn mạt nhất, Nguyễn Huy Thiệp không tuyệt vọng ở họ. Trong truyện của Thiệp, có những tiếng khóc òa, câu văn thương man mác cảm giác tê tái, đằng sau cảm giác này là nỗi đau nhân tình, một nỗi đau âm thầm, lặng lẽ nhưng sâu sắc. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ một số khuyết điểm ngày càng rõ. Chẳng hạn, văn tuệ, bút lực của anh có những phẩm giá đặc sắc nhưng thiếu sự cường tráng - nhận xét đích đáng này tôi nghe được ở một độc giả lão thành hâm mộ Thiệp. Một khuyết điểm khác: nói chung, tác giả làm chủ được tâm thuật và ngòi bút của mình, nhưng vài ba trường hợp - hết sức đáng tiếc - tác giả đã không ghìm mình được và mối căm ghét sự đốn mạt đã bùng ra một cách hung tợn, bạo ác, chứng tỏ rằng tác giả không cao hơn sự đốn mạt bao lăm. Nhưng chê gì thì chê, không thể trách Nguyễn Huy Thiệp thiếu sự thành tâm với con người.
Ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết đăng trên báo Văn nghệ năm nay bộc lộ một phương diện mới của tài năng Nguyễn Huy Thiệp: tư duy tiểu thuyết. Trong văn xuôi hiện đại, tư duy tiểu thuyết thảng hoặc bộc lộ một số tác phẩm đơn lẻ Cha và con và… của Nguyễn Khải, Thời xa vắng của Lê Lựu… nói chung tư duy sử thi chiếm ưu thế.
Sự khác biệt giữa tư duy sử thi và tư duy tiểu thuyết thể hiện rõ hơn cả ở quan điểm tiếp cận nhân vật anh hùng (và nhân vật gian hùng)(1)
Trong sử thi, giữa người kể sử thi và nhân vật anh hùng có một khoảng cách vẫn được gọi là khoảng cách sử thi. Đây là một khoảng cách xa vời, từ khoảng cách này, người kể thường bày tỏ một thái độ thành kính hoặc tôn sùng đối với nhân vật anh hùng. Trong tiểu thuyết, giữa tác giả và nhân vật chính diện (được xem là nhân vật trung tâm, nhân vật “anh hùng” của tác phẩm) không còn khoảng cách nữa. Quan hệ giữa người viết và nhân vật là một quan hệ thân mật, thân tình, thậm chí suồng sã. Thông thường người ta chỉ có quan hệ thân tình với những người ngang hàng. Người viết tiểu thuyết có thể quan hệ thân tình, suồng sã với nhân vật không kể thuộc thứ hạng nào trong xã hội(2). Tư duy tiểu thuyết mang tính dân chủ trong bản chất sâu sắc nhất của nó. Sự cảm thấy giọng văn tiểu thuyết như là xấc xược có khi là do chưa quen với tinh thần dân chủ. Trong truyện Phẩm tiết, Nguyễn Huy Thiệp đã tiếp cận nhân vật Nguyễn Huệ từ quan điểm tiểu thuyết. Ở con người Nguyễn Huệ, ngoài những nét hào hoa, thiệp liệp, tác giả, còn làm nổi bật một điểm yếu, đó là tính hiếu sắc, tính mê gái, âu cũng là một thói “nam nhi thường tình” “Không ai là anh hùng với người hầu cận của mình”. Dù là anh hùng, dù là vĩ nhân, một khi đã trở thành một nhân vật tiểu thuyết, tác giả còn hơn là một người hầu cận, vì hiểu tận ruột gan và tất cả những nỗi niềm. Người hầu cận nào cũng ít nhiều thóc mách. Nguyễn Huy Thiệp không tránh khỏi tật này. Tuy nhiên, quan điểm “hầu cận” của người viết tiểu thuyết không nên hiểu theo chiều hướng “phi anh hùng hóa”, chỉ biết nắm bắt ở người anh hùng những yếu đuối thường tình, còn tất cả những gì là phẩm giá bị gạt bỏ. Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, nhân cách của Nguyễn Huệ được phát hiện ở những khía cạnh “bất ngờ” với những phẩm giá nhân văn cao quý, Nguyễn Huy Thiệp không hề lặp lại những lời ca ngợi quen thuộc mà các văn gia, sử gia thường dùng (sẽ nói rõ hơn ở phần so sánh với con người nhân vật Nguyễn Ánh).
Như vậy, đối với nhân vật chính diện, đặc trưng của quan điểm tiểu thuyết thể hiện ở quan hệ thân mật, thân tình của người viết đối với nhân vật. Còn đối với nhân vật phản diện thì như thế nào? Đặc trưng thể loại của tiểu thuyết có đặt ra một quan hệ nào đặc thù, tương ứng với quan hệ thân mật, thân tình? Nếu như quan điểm của người viết chỉ có một mực rẻ rúng, miệt thị đối tượng thì hình tượng của nhân vật phản diện là một sự biếm họa, chưa phải là một hình tượng nhân vật tiểu thuyết. Quan điểm tiểu thuyết cho phép người viết mô tả nhân vật phản diện đầy đủ hơn với tất cả những sự khốn khổ thường tình, những biểu hiện thông thường của con người ở nó (có nghĩa là vẫn nhìn nhận ở nó cái phần nhân tính còn lại), dĩ nhiên cũng cho phép ghi nhận ở nó những phẩm giá có thể có. Nguyễn Ánh là “một nhân vật lịch sử phản diện”. Nhấn mạnh những nét bất nhân bất nghĩa của Nguyễn Ánh, Nguyễn Huy Thiệp không chối từ giả định nhân vật này là một “khối nguyên liệu vô giá”. Tác giả đã tiếp cận nhân vật Nguyễn Ánh từ quan điểm tiểu thuyết. Với cách nhìn sử thi, bất cứ ai ở bên kia chiến tuyến lập tức bị chối từ bất cứ phẩm giá nào. Miêu tả nhân vật gian hùng, nhà tiểu thuyết chỉ rõ cái gian, nhưng không quên phẩm chất hùng của nhân vật, bằng không, nhân vật gian hùng chả thấy hùng ở chỗ nào, không khác nào một đứa ăn cắp vặt ngoài chợ. Người quen với tư duy sử thi thường không chịu đựng được một quan điểm tiếp cận như vậy. Hegel có nói đến thành kiến của những bà già không sao chấp nhận được một đứa sát nhân lại có thể đẹp trai. Chỉ với sự phát triển của tư duy tiểu thuyết, văn học mới vượt qua được những (thành kiến bà già). Tình hình mới cho thấy cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng nhân loại có nguy cơ bị chia sẻ sâu sắc bởi những hình tượng “kẻ thù” được tạo bởi các thứ định kiến và thành kiến hết sức vô lý. Tư duy tiểu thuyết góp phần chuẩn bị về mặt tâm lý cho sự xóa bỏ những hình ảnh “kẻ thù” vu vơ gán ép. Sự phát triển tư duy tiểu thuyết là một yêu cầu chính trị của thời đại (dĩ nhiên, không thể hiểu là tư duy tiểu thuyết sẽ xí xóa tất cả).
Nhấn mạnh nhược điểm của Nguyễn Huệ, làm nổi bật phẩm giá của Nguyễn Ánh, Nguyễn Huy Thiệp không hề đánh đồng nhân cách của hai nhân vật.
Nguyễn Huệ có sự phản tỉnh và đời sống lương tâm, Nguyễn Ánh nói năng xử sự cứ xưng xưng, rồi lại nhơn nhơn, không hề biết áy náy, hối hận. Nguyễn Huệ “trọng tinh thần, bỉ thể xác”, Nguyễn Ánh cho thế là dại.
Chúng ta đều biết nhân tính, trình độ nhân hóa của con người và của cả xã hội thể hiện bản chất trong cách quan hệ của người đàn ông với người đàn bà - đây là một tư tưởng hết sức quan trọng trong quan niệm chủ nghĩa nhân đạo của Mác.
Nguyễn Huệ “được Vinh Hoa như được báu vật, một Vinh Hoa bằng ba vạn người”. Nguyễn Ánh “muốn sở hữu nàng như con gà, con vịt trong nhà”. Vua Quang Trung, vua Gia Long đều được đặt vào tình thế người nào cũng thảm trước người đẹp. Quang Trung thì thảm thương “nhìn mãi Vinh Hoa mà không nhắm mắt được”. Gia Long thì thảm hại “… thở dài, ngã quay ra đất, ngất lịm đi”. Ở đây, sự tinh tế của người viết là biểu hiện của sự nghiêm túc. Ca ngợi chung chung có khi là sự bất tài, có khi là sự dễ dãi, hời hợt, thậm chí là sự quấy phá, xét đến cùng là coi thường và khinh suất.
Trong truyện Phẩm tiết, Ngô Thị Vinh Hoa là nhân vật trung tâm, mở đầu, kết thúc và xuyên suốt truyện đều là Ngô Thị Vinh Hoa. Bên cạnh Vinh Hoa, vua Quang Trung, vua Gia Long đều là phụ, mỗi nhân vật đế vương này chỉ gắn với một “trường đoạn”. Trong truyện, Quang Trung, Gia Long đều là vua, người nắm quyền lực cao nhất, cả hai nhân vật đều là sự hiện thân của quyền lực. Vinh Hoa là một con người. Con người - trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp - là “hoa của đất”, là “ngọc của trời”. Con người còn là khát vọng giản đơn hạnh phúc. Là ham muốn tột bậc tự do. Và hạnh phúc của con người là hạnh phúc trong tự do. Bất cứ sự lệ thuộc vô lý nào áp đặt cho con người cũng là sự phủ định hạnh phúc. Vấn đề được đặt ra trong truyện Phẩm tiết: con người sức lực yếu đuối, con người thân cô, thế cô, giáp mặt với quyền lực có thể bảo vệ tự do của mình được không. Trong truyện, tự do là sự làm chủ nhân thân nhân phẩm, nhân sinh của mình. Tự do là lòng tự trọng, là ý thức về phẩm giá, phẩm tiết, phẩm hạnh của mình. Tự do còn là sự từ chối từ mọi sự ràng buộc, những sự ràng buộc sang trọng cũng như những sự ràng buộc thô bạo. Trong truyện, giáp mặt với quyền lực và bạo lực, Vinh Hoa cuối cùng bảo tồn được tự do và con người của mình. Không phải chỉ vì nàng thông minh, xinh đẹp. Không phải chỉ vì nàng biết lựa lời thưa gửi, biết tùy cơ ứng biến. Mà trước hết là vì nàng có triết lý nhân sinh cao hơn. Kẻ quyền lực làm cho mù quáng, nàng chỉ cho họ thấy điều bi thảm trong số phận họ. Nàng đã chỉ cho Quang Trung biết “vận Tây Sơn tính từng ngày” và nói chuyện với nàng, Gia Long ngẫm ra được rằng “Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn”. Đặt Ngô Thị Vinh Hoa cao hơn vua Quang Trung và vua Gia Long, đây là một cảm hứng nhân văn có ý nghĩa sâu xa hiếm thấy trong văn học Việt Nam hiện đại. Vinh Hoa còn là một bài học của sự nhỏ yếu bảo vệ tự do: Không nhất thiết phải lấy bảo lực chọi lại bạo lực mới bảo toàn được tự do. Ngô Thị Vinh Hoa là sự hiện thân lý tưởng nhân văn của tác giả. Vinh Hoa là sự hiện thân của thiên tính nữ mà thiên tính nữ trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp là tinh hoa của tính người(3). Trong các truyện của Thiệp, những con người ưu tú thường là nhân vật nữ, nhân vật đàn ông đa số là đốn mạt, bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì. Thế nhưng hâm mộ truyện của Nguyễn Huy Thiệp phần lớn lại là độc giả nam.
Với chủ đề tự do và quyền lực, nội dung truyện Phẩm tiết có ý nghĩa phổ quát. Người quyền cao chức trọng cũng như “phó thường dân” đọc truyện này đều biết thêm một điều gì đó trong sự làm người trên đời này. “Tôi trung không thờ hai vua” - tư tưởng này quá thấp so với chủ đề tư tưởng của Phẩm tiết. Thực ra, trong truyện này, chẳng có tôi, chẳng có vua nào cả, cũng chẳng có anh hùng, gian hùng, chỉ có quan hệ giữa những con người, những quan hệ nhân tính lẽ ra “trong suốt” nhưng trong xã hội có giai cấp thường bị các quan hệ thứ bậc, đẳng cấp làm cho mờ ám. Một đặc trưng quan trọng của tư duy tiểu thuyết là tìm tòi, khám phá con người với những nhu cầu nhân tính phổ biến ở đằng sau các bộ quần áo xã hội. Ở nhân vật tiểu thuyết đích thực “con người lớn hơn bộ quần áo xã hội” (Bakhtin). Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, Quang Trung, Gia Long được trút bỏ bộ quần áo đế vương, ta thấy con người thật của họ với những ham mê, dục vọng thường tình, những nỗi khắc khoải số phận và những tình cảm ghét, yêu, tức, giận thông thường. Con người trút bỏ bộ cánh xã hội (anh hùng một mặt nào đó cũng là một bộ cánh xã hội) thì ngôn ngữ của nó cũng khác. Có lẽ tác giả đã xuất phát từ quan điểm này để cho nhân vật Quang Trung văng những lời “thô lỗ, cục cằn” trong cơn tức giận. Văn học hiện đại chịu đựng được tất, kể cả những lời văng tục. Nhưng trong nghệ thuật văng tục cũng phải nhã, chí ít tỏ ra là nhã. Lỗi bất nhã với độc giả còn có thể biện bạch được, nhưng chuyển thành tội bất nhã với Quang Trung là xúc phạm đến những tình cảm lịch sử.
Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm tập trung ở nhân vật Vinh Hoa. Câu văn của Thiệp bình thường tỉnh táo, sắc gọn nhưng đụng đến Ngô Thị Vinh Hoa trở nên hoa mỹ, rỡ ràng khác thường: nào “đẹp rực rỡ”, “xiêm y lộng lẫy”, nào “ánh sáng rực rỡ”, “hương thơm ngào ngạt”, nào “đẹp lồ lộ”, “mơn mởn như lộc mùa xuân”… Chi tiết “nước… tiết ra thơm ngát như mùi hoa sữa”, nhất quán với hệ thống phong cách nói trên. Nhưng nó có phù hợp với sự cảm thụ của độc giả ngày nay hay không? Thiệp hiểu “mùi hoa sữa” với nghĩa tinh thần, nhưng độc giả có thể không hiểu như vậy. Theo thiên ý, chi tiết này là nỗ lực cuối cùng của Thiệp để lý tưởng hóa nhân vật Vinh Hoa (người phụ nữ nói chung, một nỗ lực nghệ sĩ vụng về, gần như rồ dại và hết sức đáng thương).
Tư duy tiểu thuyết đối lập với tư duy sử thi[4]. Khuynh hướng phản sử thi đương phát triển như điện trong folklore hiện đại. Do tính chất dân gian tự phát, trong folklore hiện đại khuynh hướng này dễ quá trớn, đi đến chỗ bỗ bã. Sánh với folklore hiện đại không dễ, nhưng mặt nào đó người viết tiểu thuyết phải cao hơn folklore. Tôi không tán thành nhiều ý kiến phê phán truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng theo ý riêng tôi, những bài này hết sức có ích cho Thiệp nhắc với anh một giới hạn vượt qua thì sự suồng sã sẽ trở thành bỗ bã, láo lếu.
Đà Lạt, tháng tám 1988
H.N.H
(SH35/01&02-89)
--------------------------
(1) Sự đối lập tư duy sử thi (còn gọi là tư duy anh hùng ca) và tư duy tiểu thuyết là một tư tưởng quan trọng trong những công trình nghiên cứu của Bakhtin về thể loại tiểu thuyết. (Xem Bakhtin M: Những vấn đề văn học và mỹ học (tiếng Nga) M. 1975).
(2) Trong Chiến tranh và hòa bình, Kutuzov là một danh tướng, một người anh hùng, nhưng Tolstoi đã tiếp cận nhân vật anh hùng này, với một quan điểm thân mật, thân tình. Từ quan điểm tiếp cận này, Kutuzov không những hiện lên trong tác phẩm với những phẩm chất ưu tú của một người tướng yêu nước, có mưu lược mà còn được giới thiệu như một ông già đáng thương, có những lúc khốn đốn, bị bọn cố vấn quân sự Đức và bọn đại thần hoạnh hoẹ. Quan điểm tiếp cận thân mật không làm cho nhân vật trở nên tầm thường, trái lại càng làm tôn thêm những phẩm chất đáng quý trong nhân cách lỗi lạc của danh tướng Kutuzov. Trong tác phẩm dựng chân dung văn học Lê-nin, Gorki đã miêu tả sâu sắc những phẩm chất ưu tú của lãnh tụ, đồng thời nêu lên những nét bình thường ở con người Lê-nin, thậm chí có lúc tác giả ví Lê-nin như "một con gà sống đắc thắng": Gorki đã tiếp cận Lê-nin từ quan điểm tiểu thuyết. Trong tập Nhật ký trong tù Hồ Chủ Tịch chủ động rút ngắn và xóa bỏ khoảng cách sử thi giữa mình và quần chúng. Tác giả Nhật ký trong tù có quan điểm tiểu thuyết với chính mình. Sự phát triển của tiểu thuyết gắn liền với sự mở rộng quan hệ thân mật, thân tình, thậm chí suồng sã của người viết tiểu thuyết với các loại nhân vật. Trong văn học viết về chiến tranh, người viết dễ có quan điểm tiểu thuyết với những nhân vật lính trơn, hoặc chỉ huy trung đội, đại đội... Tư duy tiểu thuyết cho phép và yêu cầu người viết rút ngắn hoặc xóa bỏ khoảng cách sử thi với cả những nhân vật cấp tướng. Có bạn đọc cho rằng giá như Nguyễn Huy Thiệp viết về "Lính về hưu" tác phẩm có khi còn lớn hơn. Thực ra, trong tư duy tiểu thuyết "tướng về hưu", hay "lính về hưu" thì cũng vậy thôi.
(3) Xem lời giới thiệu Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió của Hoàng Ngọc Hiến đăng trong tập truyện Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, NXB Trẻ 1988.
(4) Sự đối lập tiểu thuyết và sử thi về mặt đặc trưng thể loại không có ý nghĩa một sự phân biệt thứ bậc về mặt giá trị. Quan điểm tiếp cận của tiểu thuyết chỉ ra sở trường của thể loại này, những khả năng và cảm hứng riêng của thể loại này, những điều mà Bakhtin gọi là cái thần tình của thể loại (génie du genre). Thể loại sử thi không có “cái thần tình” này, không có nghĩa là giá trị kém hơn, thấp hơn tiểu thuyết. Tất cả vấn đề là ở sự tương ứng của chủ đề, của đề tài và nội dung đối với thể loại. Có những đề tài, những mô típ được tiếp cận bằng quan điểm sử thi có khi lại đắt hơn so với quan điểm tiểu thuyết.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.