Tư duy tiểu thuyết và folklore hiện đại

15:58 04/06/2015

HOÀNG NGỌC HIẾN

(Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp)

Ảnh: internet

Với tập truyện Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp được nhìn nhận là một tài năng mà ngay cả những người chỉ trích Thiệp gay gắt cũng không có ý định phủ nhận. Có những trường hợp sự nhìn nhận hết sức dè dặt, kèm theo bĩu môi: văn của Thiệp có tính chất cinique, tác giả không có tâm, đọc truyện của Thiệp cảm thấy ghê ghê… Tôi nghĩ rằng không phải tất cả những lời khen đều là ưu ái với Thiệp và lời chê chưa hẳn là ác cảm với anh.

Chữ tâm trong văn học - đó là lòng nhân ái và sự thành tâm với con người.

Lòng nhân ái truyền thống có thể gói gọn trong một câu “Hãy thương yêu người đồng loại” nhưng lòng nhân ái hiện đại - cũng như những tình cảm hiện đại khác - chứa chất nghịch lý: “Không được thương con người” nhưng “không thể không thương con người”. Ngòi bút trào phúng của Nguyễn Huy Thiệp vừa tàn nhẫn, vừa xót xa. Tàn nhẫn có nghĩa là “không được thương con người”, đây là mệnh lệnh của lương tâm và của tác giả đã đi đến cùng phơi bày sự đốn mạt của con người. Nhưng cuối cùng thì vẫn cứ xót xa “không thể không thương con người”.

Ngay ở những nhân vật đốn mạt nhất, Nguyễn Huy Thiệp không tuyệt vọng ở họ. Trong truyện của Thiệp, có những tiếng khóc òa, câu văn thương man mác cảm giác tê tái, đằng sau cảm giác này là nỗi đau nhân tình, một nỗi đau âm thầm, lặng lẽ nhưng sâu sắc. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp bộc lộ một số khuyết điểm ngày càng rõ. Chẳng hạn, văn tuệ, bút lực của anh có những phẩm giá đặc sắc nhưng thiếu sự cường tráng - nhận xét đích đáng này tôi nghe được ở một độc giả lão thành hâm mộ Thiệp. Một khuyết điểm khác: nói chung, tác giả làm chủ được tâm thuật và ngòi bút của mình, nhưng vài ba trường hợp - hết sức đáng tiếc - tác giả đã không ghìm mình được và mối căm ghét sự đốn mạt đã bùng ra một cách hung tợn, bạo ác, chứng tỏ rằng tác giả không cao hơn sự đốn mạt bao lăm. Nhưng chê gì thì chê, không thể trách Nguyễn Huy Thiệp thiếu sự thành tâm với con người.

Ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết đăng trên báo Văn nghệ năm nay bộc lộ một phương diện mới của tài năng Nguyễn Huy Thiệp: tư duy tiểu thuyết. Trong văn xuôi hiện đại, tư duy tiểu thuyết thảng hoặc bộc lộ một số tác phẩm đơn lẻ Cha và con và… của Nguyễn Khải, Thời xa vắng của Lê Lựu… nói chung tư duy sử thi chiếm ưu thế.

Sự khác biệt giữa tư duy sử thi và tư duy tiểu thuyết thể hiện rõ hơn cả ở quan điểm tiếp cận nhân vật anh hùng (và nhân vật gian hùng)(1)

Trong sử thi, giữa người kể sử thi và nhân vật anh hùng có một khoảng cách vẫn được gọi là khoảng cách sử thi. Đây là một khoảng cách xa vời, từ khoảng cách này, người kể thường bày tỏ một thái độ thành kính hoặc tôn sùng đối với nhân vật anh hùng. Trong tiểu thuyết, giữa tác giả và nhân vật chính diện (được xem là nhân vật trung tâm, nhân vật “anh hùng” của tác phẩm) không còn khoảng cách nữa. Quan hệ giữa người viết và nhân vật là một quan hệ thân mật, thân tình, thậm chí suồng sã. Thông thường người ta chỉ có quan hệ thân tình với những người ngang hàng. Người viết tiểu thuyết có thể quan hệ thân tình, suồng sã với nhân vật không kể thuộc thứ hạng nào trong xã hội(2). Tư duy tiểu thuyết mang tính dân chủ trong bản chất sâu sắc nhất của nó. Sự cảm thấy giọng văn tiểu thuyết như là xấc xược có khi là do chưa quen với tinh thần dân chủ. Trong truyện Phẩm tiết, Nguyễn Huy Thiệp đã tiếp cận nhân vật Nguyễn Huệ từ quan điểm tiểu thuyết. Ở con người Nguyễn Huệ, ngoài những nét hào hoa, thiệp liệp, tác giả, còn làm nổi bật một điểm yếu, đó là tính hiếu sắc, tính mê gái, âu cũng là một thói “nam nhi thường tình” “Không ai là anh hùng với người hầu cận của mình”. Dù là anh hùng, dù là vĩ nhân, một khi đã trở thành một nhân vật tiểu thuyết, tác giả còn hơn là một người hầu cận, vì hiểu tận ruột gan và tất cả những nỗi niềm. Người hầu cận nào cũng ít nhiều thóc mách. Nguyễn Huy Thiệp không tránh khỏi tật này. Tuy nhiên, quan điểm “hầu cận” của người viết tiểu thuyết không nên hiểu theo chiều hướng “phi anh hùng hóa”, chỉ biết nắm bắt ở người anh hùng những yếu đuối thường tình, còn tất cả những gì là phẩm giá bị gạt bỏ. Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, nhân cách của Nguyễn Huệ được phát hiện ở những khía cạnh “bất ngờ” với những phẩm giá nhân văn cao quý, Nguyễn Huy Thiệp không hề lặp lại những lời ca ngợi quen thuộc mà các văn gia, sử gia thường dùng (sẽ nói rõ hơn ở phần so sánh với con người nhân vật Nguyễn Ánh).

Như vậy, đối với nhân vật chính diện, đặc trưng của quan điểm tiểu thuyết thể hiện ở quan hệ thân mật, thân tình của người viết đối với nhân vật. Còn đối với nhân vật phản diện thì như thế nào? Đặc trưng thể loại của tiểu thuyết có đặt ra một quan hệ nào đặc thù, tương ứng với quan hệ thân mật, thân tình? Nếu như quan điểm của người viết chỉ có một mực rẻ rúng, miệt thị đối tượng thì hình tượng của nhân vật phản diện là một sự biếm họa, chưa phải là một hình tượng nhân vật tiểu thuyết. Quan điểm tiểu thuyết cho phép người viết mô tả nhân vật phản diện đầy đủ hơn với tất cả những sự khốn khổ thường tình, những biểu hiện thông thường của con người ở nó (có nghĩa là vẫn nhìn nhận ở nó cái phần nhân tính còn lại), dĩ nhiên cũng cho phép ghi nhận ở nó những phẩm giá có thể có. Nguyễn Ánh là “một nhân vật lịch sử phản diện”. Nhấn mạnh những nét bất nhân bất nghĩa của Nguyễn Ánh, Nguyễn Huy Thiệp không chối từ giả định nhân vật này là một “khối nguyên liệu vô giá”. Tác giả đã tiếp cận nhân vật Nguyễn Ánh từ quan điểm tiểu thuyết. Với cách nhìn sử thi, bất cứ ai ở bên kia chiến tuyến lập tức bị chối từ bất cứ phẩm giá nào. Miêu tả nhân vật gian hùng, nhà tiểu thuyết chỉ rõ cái gian, nhưng không quên phẩm chất hùng của nhân vật, bằng không, nhân vật gian hùng chả thấy hùng ở chỗ nào, không khác nào một đứa ăn cắp vặt ngoài chợ. Người quen với tư duy sử thi thường không chịu đựng được một quan điểm tiếp cận như vậy. Hegel có nói đến thành kiến của những bà già không sao chấp nhận được một đứa sát nhân lại có thể đẹp trai. Chỉ với sự phát triển của tư duy tiểu thuyết, văn học mới vượt qua được những (thành kiến bà già). Tình hình mới cho thấy cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng nhân loại có nguy cơ bị chia sẻ sâu sắc bởi những hình tượng “kẻ thù” được tạo bởi các thứ định kiến và thành kiến hết sức vô lý. Tư duy tiểu thuyết góp phần chuẩn bị về mặt tâm lý cho sự xóa bỏ những hình ảnh “kẻ thù” vu vơ gán ép. Sự phát triển tư duy tiểu thuyết là một yêu cầu chính trị của thời đại (dĩ nhiên, không thể hiểu là tư duy tiểu thuyết sẽ xí xóa tất cả).

Nhấn mạnh nhược điểm của Nguyễn Huệ, làm nổi bật phẩm giá của Nguyễn Ánh, Nguyễn Huy Thiệp không hề đánh đồng nhân cách của hai nhân vật.

Nguyễn Huệ có sự phản tỉnh và đời sống lương tâm, Nguyễn Ánh nói năng xử sự cứ xưng xưng, rồi lại nhơn nhơn, không hề biết áy náy, hối hận. Nguyễn Huệ “trọng tinh thần, bỉ thể xác”, Nguyễn Ánh cho thế là dại.

Chúng ta đều biết nhân tính, trình độ nhân hóa của con người và của cả xã hội thể hiện bản chất trong cách quan hệ của người đàn ông với người đàn bà - đây là một tư tưởng hết sức quan trọng trong quan niệm chủ nghĩa nhân đạo của Mác.

Nguyễn Huệ “được Vinh Hoa như được báu vật, một Vinh Hoa bằng ba vạn người”. Nguyễn Ánh “muốn sở hữu nàng như con gà, con vịt trong nhà”. Vua Quang Trung, vua Gia Long đều được đặt vào tình thế người nào cũng thảm trước người đẹp. Quang Trung thì thảm thương “nhìn mãi Vinh Hoa mà không nhắm mắt được”. Gia Long thì thảm hại “… thở dài, ngã quay ra đất, ngất lịm đi”. Ở đây, sự tinh tế của người viết là biểu hiện của sự nghiêm túc. Ca ngợi chung chung có khi là sự bất tài, có khi là sự dễ dãi, hời hợt, thậm chí là sự quấy phá, xét đến cùng là coi thường và khinh suất.

Trong truyện Phẩm tiết, Ngô Thị Vinh Hoa là nhân vật trung tâm, mở đầu, kết thúc và xuyên suốt truyện đều là Ngô Thị Vinh Hoa. Bên cạnh Vinh Hoa, vua Quang Trung, vua Gia Long đều là phụ, mỗi nhân vật đế vương này chỉ gắn với một “trường đoạn”. Trong truyện, Quang Trung, Gia Long đều là vua, người nắm quyền lực cao nhất, cả hai nhân vật đều là sự hiện thân của quyền lực. Vinh Hoa là một con người. Con người - trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp - là “hoa của đất”, là “ngọc của trời”. Con người còn là khát vọng giản đơn hạnh phúc. Là ham muốn tột bậc tự do. Và hạnh phúc của con người là hạnh phúc trong tự do. Bất cứ sự lệ thuộc vô lý nào áp đặt cho con người cũng là sự phủ định hạnh phúc. Vấn đề được đặt ra trong truyện Phẩm tiết: con người sức lực yếu đuối, con người thân cô, thế cô, giáp mặt với quyền lực có thể bảo vệ tự do của mình được không. Trong truyện, tự do là sự làm chủ nhân thân nhân phẩm, nhân sinh của mình. Tự do là lòng tự trọng, là ý thức về phẩm giá, phẩm tiết, phẩm hạnh của mình. Tự do còn là sự từ chối từ mọi sự ràng buộc, những sự ràng buộc sang trọng cũng như những sự ràng buộc thô bạo. Trong truyện, giáp mặt với quyền lực và bạo lực, Vinh Hoa cuối cùng bảo tồn được tự do và con người của mình. Không phải chỉ vì nàng thông minh, xinh đẹp. Không phải chỉ vì nàng biết lựa lời thưa gửi, biết tùy cơ ứng biến. Mà trước hết là vì nàng có triết lý nhân sinh cao hơn. Kẻ quyền lực làm cho mù quáng, nàng chỉ cho họ thấy điều bi thảm trong số phận họ. Nàng đã chỉ cho Quang Trung biết “vận Tây Sơn tính từng ngày” và nói chuyện với nàng, Gia Long ngẫm ra được rằng “Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn”. Đặt Ngô Thị Vinh Hoa cao hơn vua Quang Trung và vua Gia Long, đây là một cảm hứng nhân văn có ý nghĩa sâu xa hiếm thấy trong văn học Việt Nam hiện đại. Vinh Hoa còn là một bài học của sự nhỏ yếu bảo vệ tự do: Không nhất thiết phải lấy bảo lực chọi lại bạo lực mới bảo toàn được tự do. Ngô Thị Vinh Hoa là sự hiện thân lý tưởng nhân văn của tác giả. Vinh Hoa là sự hiện thân của thiên tính nữ mà thiên tính nữ trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp là tinh hoa của tính người(3). Trong các truyện của Thiệp, những con người ưu tú thường là nhân vật nữ, nhân vật đàn ông đa số là đốn mạt, bất đắc chí, vô tích sự, nói chung là không ra gì. Thế nhưng hâm mộ truyện của Nguyễn Huy Thiệp phần lớn lại là độc giả nam.

Với chủ đề tự do và quyền lực, nội dung truyện Phẩm tiết có ý nghĩa phổ quát. Người quyền cao chức trọng cũng như “phó thường dân” đọc truyện này đều biết thêm một điều gì đó trong sự làm người trên đời này. “Tôi trung không thờ hai vua” - tư tưởng này quá thấp so với chủ đề tư tưởng của Phẩm tiết. Thực ra, trong truyện này, chẳng có tôi, chẳng có vua nào cả, cũng chẳng có anh hùng, gian hùng, chỉ có quan hệ giữa những con người, những quan hệ nhân tính lẽ ra “trong suốt” nhưng trong xã hội có giai cấp thường bị các quan hệ thứ bậc, đẳng cấp làm cho mờ ám. Một đặc trưng quan trọng của tư duy tiểu thuyết là tìm tòi, khám phá con người với những nhu cầu nhân tính phổ biến ở đằng sau các bộ quần áo xã hội. Ở nhân vật tiểu thuyết đích thực “con người lớn hơn bộ quần áo xã hội” (Bakhtin). Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, Quang Trung, Gia Long được trút bỏ bộ quần áo đế vương, ta thấy con người thật của họ với những ham mê, dục vọng thường tình, những nỗi khắc khoải số phận và những tình cảm ghét, yêu, tức, giận thông thường. Con người trút bỏ bộ cánh xã hội (anh hùng một mặt nào đó cũng là một bộ cánh xã hội) thì ngôn ngữ của nó cũng khác. Có lẽ tác giả đã xuất phát từ quan điểm này để cho nhân vật Quang Trung văng những lời “thô lỗ, cục cằn” trong cơn tức giận. Văn học hiện đại chịu đựng được tất, kể cả những lời văng tục. Nhưng trong nghệ thuật văng tục cũng phải nhã, chí ít tỏ ra là nhã. Lỗi bất nhã với độc giả còn có thể biện bạch được, nhưng chuyển thành tội bất nhã với Quang Trung là xúc phạm đến những tình cảm lịch sử.

Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm tập trung ở nhân vật Vinh Hoa. Câu văn của Thiệp bình thường tỉnh táo, sắc gọn nhưng đụng đến Ngô Thị Vinh Hoa trở nên hoa mỹ, rỡ ràng khác thường: nào “đẹp rực rỡ”, “xiêm y lộng lẫy”, nào “ánh sáng rực rỡ”, “hương thơm ngào ngạt”, nào “đẹp lồ lộ”, “mơn mởn như lộc mùa xuân”… Chi tiết “nước… tiết ra thơm ngát như mùi hoa sữa”, nhất quán với hệ thống phong cách nói trên. Nhưng nó có phù hợp với sự cảm thụ của độc giả ngày nay hay không? Thiệp hiểu “mùi hoa sữa” với nghĩa tinh thần, nhưng độc giả có thể không hiểu như vậy. Theo thiên ý, chi tiết này là nỗ lực cuối cùng của Thiệp để lý tưởng hóa nhân vật Vinh Hoa (người phụ nữ nói chung, một nỗ lực nghệ sĩ vụng về, gần như rồ dại và hết sức đáng thương).

Tư duy tiểu thuyết đối lập với tư duy sử thi[4]. Khuynh hướng phản sử thi đương phát triển như điện trong folklore hiện đại. Do tính chất dân gian tự phát, trong folklore hiện đại khuynh hướng này dễ quá trớn, đi đến chỗ bỗ bã. Sánh với folklore hiện đại không dễ, nhưng mặt nào đó người viết tiểu thuyết phải cao hơn folklore. Tôi không tán thành nhiều ý kiến phê phán truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng theo ý riêng tôi, những bài này hết sức có ích cho Thiệp nhắc với anh một giới hạn vượt qua thì sự suồng sã sẽ trở thành bỗ bã, láo lếu.

Đà Lạt, tháng tám 1988
H.N.H
(SH35/01&02-89)


--------------------------
(1) Sự đối lập tư duy sử thi (còn gọi là tư duy anh hùng ca) và tư duy tiểu thuyết là một tư tưởng quan trọng trong những công trình nghiên cứu của Bakhtin về thể loại tiểu thuyết. (Xem Bakhtin M: Những vấn đề văn học và mỹ học (tiếng Nga) M. 1975).
(2) Trong Chiến tranh và hòa bình, Kutuzov là một danh tướng, một người anh hùng, nhưng Tolstoi đã tiếp cận nhân vật anh hùng này, với một quan điểm thân mật, thân tình. Từ quan điểm tiếp cận này, Kutuzov không những hiện lên trong tác phẩm với những phẩm chất ưu tú của một người tướng yêu nước, có mưu lược mà còn được giới thiệu như một ông già đáng thương, có những lúc khốn đốn, bị bọn cố vấn quân sự Đức và bọn đại thần hoạnh hoẹ. Quan điểm tiếp cận thân mật không làm cho nhân vật trở nên tầm thường, trái lại càng làm tôn thêm những phẩm chất đáng quý trong nhân cách lỗi lạc của danh tướng Kutuzov. Trong tác phẩm dựng chân dung văn học Lê-nin, Gorki đã miêu tả sâu sắc những phẩm chất ưu tú của lãnh tụ, đồng thời nêu lên những nét bình thường ở con người Lê-nin, thậm chí có lúc tác giả ví Lê-nin như "một con gà sống đắc thắng": Gorki đã tiếp cận Lê-nin từ quan điểm tiểu thuyết. Trong tập Nhật ký trong tù Hồ Chủ Tịch chủ động rút ngắn và xóa bỏ khoảng cách sử thi giữa mình và quần chúng. Tác giả Nhật ký trong tù có quan điểm tiểu thuyết với chính mình. Sự phát triển của tiểu thuyết gắn liền với sự mở rộng quan hệ thân mật, thân tình, thậm chí suồng sã của người viết tiểu thuyết với các loại nhân vật. Trong văn học viết về chiến tranh, người viết dễ có quan điểm tiểu thuyết với những nhân vật lính trơn, hoặc chỉ huy trung đội, đại đội... Tư duy tiểu thuyết cho phép và yêu cầu người viết rút ngắn hoặc xóa bỏ khoảng cách sử thi với cả những nhân vật cấp tướng. Có bạn đọc cho rằng giá như Nguyễn Huy Thiệp viết về "Lính về hưu" tác phẩm có khi còn lớn hơn. Thực ra, trong tư duy tiểu thuyết "tướng về hưu", hay "lính về hưu" thì cũng vậy thôi.
(3) Xem lời giới thiệu Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió của Hoàng Ngọc Hiến đăng trong tập truyện Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, NXB Trẻ 1988.
(4) Sự đối lập tiểu thuyết và sử thi về mặt đặc trưng thể loại không có ý nghĩa một sự phân biệt thứ bậc về mặt giá trị. Quan điểm tiếp cận của tiểu thuyết chỉ ra sở trường của thể loại này, những khả năng và cảm hứng riêng của thể loại này, những điều mà Bakhtin gọi là cái thần tình của thể loại (génie du genre). Thể loại sử thi không có “cái thần tình” này, không có nghĩa là giá trị kém hơn, thấp hơn tiểu thuyết. Tất cả vấn đề là ở sự tương ứng của chủ đề, của đề tài và nội dung đối với thể loại. Có những đề tài, những mô típ được tiếp cận bằng quan điểm sử thi có khi lại đắt hơn so với quan điểm tiểu thuyết.







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.