Gắn bó với người Việt hàng nghìn năm nay, giấy dó từ một chất liệu của tri thức đã bước vào lĩnh vực tạo hình, trở thành chất liệu của văn hóa. Tuy nhiên, trong đời sống ngày nay, phải có sự cải tiến để giấy dó phục vụ tốt hơn nhu cầu của con người hiện đại.
Được sử dụng nhiều, sản xuất giấy dó mới có thể phát triển - Ảnh: Ng. Phương
Thăng trầm giấy dó
“Nhịp chày Yên Thái” đã đi vào ca dao, cùng tên những địa danh, làng cổ liên quan đến nghề giấy của Hà Nội cho thấy phần nào sự phát triển của sản xuất giấy dó xưa. Theo ghi chép sử trong và ngoài nước, từ thế kỷ III, nước ta đã có nghề làm giấy, từ thời Lý có làng Dịch Vọng chuyên nghề làm giấy, sau đó, sản xuất giấy dó được mở rộng và sản phẩm làm ra ngày càng đạt đến độ tinh tế, cầu kỳ. Nhưng hiện nay có nhiều loại giấy thay thế nên giấy dó ít được sử dụng trong đời sống, sản xuất bị thu gọn, mai một. Giấy sắc phong có giá trị và được người Nhật đánh giá cao, có độ bền dai nhất thế giới, lưu trữ được 600 - 700 năm trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta, nhưng thông tin về giấy này nhiều người không biết và cũng không còn được sản xuất. Các loại giấy dó khác trong tình trạng tương tự.
Ông Lại Phú Thạch, đại diện dòng họ Lại, Nghĩa Đô có nghề làm giấy sắc phong, cho biết, sản phẩm đã ngừng sản xuất từ năm 1944. Kỹ thuật làm giấy vẫn được lưu giữ, nhưng trước kia cả dòng họ làm giấy, giờ chỉ còn mình ông, và có sản xuất ra cũng không bán được. Còn theo ông Nguyễn Phương Khánh, đại diện Ban quản lý Di tích Lịch sử Đông Xã, Phường Bưởi, cho biết, ngày xưa, nghề giấy có từ Hạ Yên Quyết, đến làng Hồ Khẩu, rồi Đông Xã, Yên Thái, Nghĩa Đô... Từ một vùng làm giấy phát triển cung cấp cho các vùng khác từ miền Bắc đến miền Trung, đến những năm 1980, nghề mai một rồi gần như mất hẳn, bởi không có thị trường.
May thay, hiện nay, nhiều họa sĩ sáng tác trên mặt giấy dó, nhờ đó loại giấy truyền thống này tiếp tục được sản xuất, sau thời gian tưởng chừng như mất hẳn. “Hơn 20 năm trước, tôi muốn tìm giấy tốt để vẽ tranh dân gian, tranh thờ, tranh treo Tết, nhưng nghề giấy dó chẳng có ai làm, chỉ còn giấy bản. Những năm sau đó, chất liệu này được ứng dụng nhiều trong hội họa, rất may các cơ sở làm giấy dó mới seo được các loại giấy khổ lớn phục vụ họa sĩ, từ đó tôi quay lại dùng giấy dó để vẽ tranh. Những năm gần đây, khách đến đặt vẽ tranh đều hỏi là làm trên giấy gì, tôi tự hào nói là làm trên giấy dó” - nghệ nhân tranh Hàng Trống Lê Đình Nghiên chia sẻ. Từng dùng nhiều loại giấy khác nhau, ông Nghiên thấy rằng, dó có nhiều ưu điểm hơn. Thời điểm không có giấy dó, ông vẽ tranh trên giấy in báo, nhưng khi mang ra nước ngoài, khí hậu châu Âu và Mỹ khô hanh, tranh treo bị “cong như bánh đa”, khác hẳn tranh vẽ trên dó.
Tăng giá trị để giữ nghề giấy
Theo họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, đã đến lúc, ngành giấy dó cần có sự vào cuộc của nhà khoa học, người làm nghệ thuật. Người làm nghệ thuật tạo ra nhu cầu, khôi phục sản xuất giấy dó; nhà khoa học nghiên cứu tạo ra công nghệ sản xuất hiện đại để dó chinh phục nhiều người. Trước đây ngoài vẽ tranh dân gian, các cụ còn làm đèn từ giấy dó, vẽ trên giấy dó rồi ép trên kính, đồ chơi... Hiện nay việc sử dụng dó hạn chế hơn, chủ yếu vẽ và viết. Giấy dó cũng không đa dạng, chất lượng giảm dù kỹ thuật như xưa, đó là điều cần suy nghĩ! |
Tồn tại cùng chiều dài lịch sử dân tộc, giấy dó là “chất liệu tri thức” - nơi lưu trữ những ghi chép, tài liệu in ấn, rồi tranh dân gian, tạo nên những đèn lồng nhiều màu sắc... Khả năng của giấy dó vẫn đang tiếp tục được khai phá. Trong hội họa, trước đó giấy dó chỉ được coi như một chất liệu chuyển tiếp, dùng để ký họa, ghi chép tài liệu, thì nay được coi là chất liệu của sáng tạo, để bề mặt giấy trở thành bức tranh, mang lại hiệu ứng thị giác. Theo họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức: Giấy dó đầy đủ và có nhiều tố chất mà các loại giấy khác không có. Nó là chất liệu mà về giá trị thẩm mỹ và ứng dụng trong nghệ thuật thuận lợi, được nhiều họa sĩ ưa thích. Khách hàng cũng thích tranh giấy dó, phóng túng, dung dị, mộc mạc hơn tranh lụa. Mỹ thuật ứng dụng bằng chất liệu giấy dó hiện nay tương đối phổ biến.
Từng vẽ sơn mài, lụa, màu nước... và có duyên với giấy dó, họa sĩ Lý Trực Sơn, một trong những họa sĩ đầu tiên sáng tác trên giấy dó như một chất liệu nghệ thuật và có triển lãm giấy dó đầu tiên vào những năm 1980 cho rằng, giấy dó có nhiều tính năng để làm hội họa, nhưng chúng ta chưa khai thác hết, như có của quý trong nhà mà chưa biết cách sử dụng. “Khi vẽ trên giấy thì không có độ thấm màu như trên dó, từ đó tôi tìm ra kỹ thuật để đi theo hướng đó. Khả năng tự nhiên của chất liệu đã gợi ý cho nghệ sĩ cách làm”.
Họa sĩ Lý Trực Sơn cho rằng, nếu quảng bá rộng rãi để có thêm nhiều họa sĩ, không chỉ ở Việt Nam, mà cả các nước khác cũng thích vẽ giấy dó, thì sẽ có thêm nguồn tiêu thụ và phát triển nghề giấy truyền thống. Nghệ thuật phát triển, làng nghề có thể tồn tại. Mặt khác, cần có sự tương tác với làng nghề, có sự tham gia của các nhà khoa học. Cách làm dó cắt bớt công đoạn để giảm giá thành như hiện nay gây thiệt hại cho làng nghề. Cần cải tiến quy trình để tốn ít nguyên liệu, bảo vệ môi trường nhưng giấy dó có giá trị cao, được nhiều người ưa thích và ứng dụng nhiều hơn trong cuộc sống đương đại.
Hoạt động đấu giá nghệ thuật ở Việt Nam mới đang ở buổi bình minh. Buổi đấu giá nghệ thuật chính thức đầu tiên được tổ chức cách đây chưa đầy hai năm bởi Công ty Cổ phần Bán đấu giá Lạc Việt tại Hà Nội hồi tháng 5/2016.
Nhiều biểu hiện cho thấy nhận thức của xã hội đối với sở hữu trí tuệ còn hạn chế. Người dân chưa hình thành ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ; chủ sở hữu chưa chủ động thực hiện việc bảo vệ quyền và tài sản của mình mà vẫn mang nặng tâm lý trông chờ, ỷ lại.
Tăng mức giảm giá sách lên tới 80% và không hạn chế số lượng ngày được giảm giá trong năm là những kiến nghị mà Hội Xuất bản VN vừa gửi lên Bộ Công thương.
Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, lễ hội nói chung và lễ hội dân gian nói riêng là những sản phẩm tinh thần đặc biệt, đáp ứng nhu cầu văn hóa của mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, theo PGS.TS Trương Quốc Bình - Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, bên cạnh những hiệu quả, những năm qua việc tổ chức và hoạt động lễ hội bộc lộ không ít những tồn tại, bất cập.
Cho rằng lễ Vu lan dần trở nên vững bền, sâu sắc hơn trong văn hóa Việt, tuy nhiên nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ trao đổi với Tiền Phong rằng cần xem lại nếu các nghi lễ đó quá trọng hình thức, tổ chức tràn lan theo phong trào.
Sau 9 ngày diễn ra sôi nổi, Cuộc thi tài năng trẻ diễn viên sân khấu Tuồng, Chèo chuyên nghiệp toàn quốc 2017 vừa chính thức bế mạc bằng lễ trao giải, tại Thanh Hóa. Theo đó, BTC đã trao 23 HCV, 20 HCB và 2 giải diễn viên trẻ triển vọng là Dương Thị Mai Linh (Nhà hát Chèo Nam Định), Nguyễn Đoàn Thiên Sinh (Nhà hát Chèo Ninh Bình).
Bản quyền, quyền tác giả, thẩm định thật giả đối với tác phẩm nghệ thuật… lại là vấn đề nóng trong dư luận những ngày qua.
“Đã qua rồi cái thời ca sĩ phải lệ thuộc quá nhiều vào ngoại hình và kể cả danh xưng. Nhiều giọng ca nổi tiếng, trụ được lại đến giờ ở ta, thử hỏi mấy ai mạnh về sắc vóc. Cuối cùng thì thời gian vẫn luôn đưa ra câu trả lời công tâm nhất cho những chân giá trị” - NSƯT Tấn Minh - Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc Thăng Long chia sẻ, trước đêm nhạc “Danh ca Việt Nam” tôn vinh 4 giọng ca nam thuộc 4 dòng nhạc (diễn ra tối 16.7, tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô, Hà Nội).
Theo một số chuyên gia văn hóa, cần xem xét lễ hội chọi trâu dưới nhiều góc độ: văn hóa, du lịch, kinh tế... để có cách ứng xử hợp lý.
Hơn 90% người đến tham dự buổi nói chuyện “Chế ngự khủng hoảng tuổi thành niên” là thanh niên. Theo Ths Tâm lý học Nguyễn Lan Anh: đó là tín hiệu đáng mừng!
Việt Nam có nguồn lực văn hóa dồi dào, với các di sản vật thể và phi vật thể đa dạng. Nếu có chính sách hợp lý, chúng ta có thể đưa văn hóa trở thành động lực cho sự phát triển hài hòa và bền vững.
"Chúng ta được hứa hẹn về một xã hội hoàn hảo, nhưng rồi chỉ nhận lại những trò chơi khăm, tin tức giả và một sự sụp đổ rõ ràng của sự lịch thiệp." Đó là một trong những nhận định thú vị được nêu ra tại bài viết của cây bút Josh Quittner, Giám đốc biên tập của trang tin Flipboard.
Suốt hơn 2 tháng qua, chuyện cấp phép biểu diễn ca khúc là đề tài nóng của công luận. Đặc biệt hơn sau sự việc Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) mới đây cập nhật danh sách hơn 300 bài hát thuộc diện được phổ biến rộng rãi, trong đó có nhiều ca khúc cách mạng đã thành giai điệu nằm lòng của nhiều thế hệ khán giả, thì câu chuyện quản lý cấp phép đã làm “nóng” cả hành lang nghị trường.
Việc làm của Cục Nghệ thuật biểu diễn tạo ra bức xúc không đáng, làm tổn thương dư luận - đại biểu Quốc hội Phan Viết Lượng nhận định.
HẠ NGUYÊN
Câu chuyện dưới đây không hề là của trí tưởng tượng của bất kỳ cây bút hậu hiện đại nào bởi vì nó có thực.
Cộng đồng mạng đang dấy lên làn sóng tranh luận về văn hóa thưởng thức nghệ thuật - giải trí của khán giả, khi gần đây liên tục nhiều nghệ sĩ bị ném đồ vật lên sân khấu trong lúc đang biểu diễn.
Thời gian qua, vụ việc nữ sinh Phương Anh, học sinh trường THPT Phan Bội Châu (TP. Vinh, Nghệ An) tố cáo giám thị chép bài đưa cho thí sinh trong kỳ thi học sinh giỏi tỉnh đã thu hút sự quan tâm của dư luận.
Cơ quan nọ mời một tiến sĩ đến nói chuyện với cán bộ, công chức, viên chức nhằm góp phần nâng cao nghiêp vụ. Đó là người nổi tiếng trong một lĩnh vực, được rất nhiều nơi mời lên lớp, diễn thuyết.
Băn khoăn quanh việc 5 ca khúc sáng tác trước 1975 bị cấm lưu hành còn chưa có hồi kết, thì vừa mới đây dư luận lại thêm một lần ngạc nhiên đến… không tin nổi vì ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lâu nay chưa được cấp phép phổ biến. Sự ngạc nhiên ấy hoàn toàn có cơ sở bởi ca khúc này hiện đang được sử dụng trong chương trình SGK môn Âm nhạc lớp 9 - bậc THCS. Và khi dư luận ồn ào thì ca khúc lại được cấp phép biểu diễn.
Nhà văn Bùi Anh Tấn nổi tiếng hiền lành, ai nói gì ông thường cười cho qua. Thế nhưng mới đây, tác giả Một thế giới không có đàn bà đã tỏ rõ sự bực bội vì chuyện nhuận bút.