Từ chất liệu tri thức tới văn hóa

15:09 14/06/2019

Gắn bó với người Việt hàng nghìn năm nay, giấy dó từ một chất liệu của tri thức đã bước vào lĩnh vực tạo hình, trở thành chất liệu của văn hóa. Tuy nhiên, trong đời sống ngày nay, phải có sự cải tiến để giấy dó phục vụ tốt hơn nhu cầu của con người hiện đại.

Được sử dụng nhiều, sản xuất giấy dó mới có thể phát triển - Ảnh: Ng. Phương

Thăng trầm giấy dó

“Nhịp chày Yên Thái” đã đi vào ca dao, cùng tên những địa danh, làng cổ liên quan đến nghề giấy của Hà Nội cho thấy phần nào sự phát triển của sản xuất giấy dó xưa. Theo ghi chép sử trong và ngoài nước, từ thế kỷ III, nước ta đã có nghề làm giấy, từ thời Lý có làng Dịch Vọng chuyên nghề làm giấy, sau đó, sản xuất giấy dó được mở rộng và sản phẩm làm ra ngày càng đạt đến độ tinh tế, cầu kỳ. Nhưng hiện nay có nhiều loại giấy thay thế nên giấy dó ít được sử dụng trong đời sống, sản xuất bị thu gọn, mai một. Giấy sắc phong có giá trị và được người Nhật đánh giá cao, có độ bền dai nhất thế giới, lưu trữ được 600 - 700 năm trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta, nhưng thông tin về giấy này nhiều người không biết và cũng không còn được sản xuất. Các loại giấy dó khác trong tình trạng tương tự.

Ông Lại Phú Thạch, đại diện dòng họ Lại, Nghĩa Đô có nghề làm giấy sắc phong, cho biết, sản phẩm đã ngừng sản xuất từ năm 1944. Kỹ thuật làm giấy vẫn được lưu giữ, nhưng trước kia cả dòng họ làm giấy, giờ chỉ còn mình ông, và có sản xuất ra cũng không bán được. Còn theo ông Nguyễn Phương Khánh, đại diện Ban quản lý Di tích Lịch sử Đông Xã, Phường Bưởi, cho biết, ngày xưa, nghề giấy có từ Hạ Yên Quyết, đến làng Hồ Khẩu, rồi Đông Xã, Yên Thái, Nghĩa Đô... Từ một vùng làm giấy phát triển cung cấp cho các vùng khác từ miền Bắc đến miền Trung, đến những năm 1980, nghề mai một rồi gần như mất hẳn, bởi không có thị trường.

May thay, hiện nay, nhiều họa sĩ sáng tác trên mặt giấy dó, nhờ đó loại giấy truyền thống này tiếp tục được sản xuất, sau thời gian tưởng chừng như mất hẳn. “Hơn 20 năm trước, tôi muốn tìm giấy tốt để vẽ tranh dân gian, tranh thờ, tranh treo Tết, nhưng nghề giấy dó chẳng có ai làm, chỉ còn giấy bản. Những năm sau đó, chất liệu này được ứng dụng nhiều trong hội họa, rất may các cơ sở làm giấy dó mới seo được các loại giấy khổ lớn phục vụ họa sĩ, từ đó tôi quay lại dùng giấy dó để vẽ tranh. Những năm gần đây, khách đến đặt vẽ tranh đều hỏi là làm trên giấy gì, tôi tự hào nói là làm trên giấy dó” - nghệ nhân tranh Hàng Trống Lê Đình Nghiên chia sẻ. Từng dùng nhiều loại giấy khác nhau, ông Nghiên thấy rằng, dó có nhiều ưu điểm hơn. Thời điểm không có giấy dó, ông vẽ tranh trên giấy in báo, nhưng khi mang ra nước ngoài, khí hậu châu Âu và Mỹ khô hanh, tranh treo bị “cong như bánh đa”, khác hẳn tranh vẽ trên dó.

Tăng giá trị để giữ nghề giấy

 Theo họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, đã đến lúc, ngành giấy dó cần có sự vào cuộc của nhà khoa học, người làm nghệ thuật. Người làm nghệ thuật tạo ra nhu cầu, khôi phục sản xuất giấy dó; nhà khoa học nghiên cứu tạo ra công nghệ sản xuất hiện đại để dó chinh phục nhiều người. Trước đây ngoài vẽ tranh dân gian, các cụ còn làm đèn từ giấy dó, vẽ trên giấy dó rồi ép trên kính, đồ chơi... Hiện nay việc sử dụng dó hạn chế hơn, chủ yếu vẽ và viết. Giấy dó cũng không đa dạng, chất lượng giảm dù kỹ thuật như xưa, đó là điều cần suy nghĩ!

Tồn tại cùng chiều dài lịch sử dân tộc, giấy dó là “chất liệu tri thức” - nơi lưu trữ những ghi chép, tài liệu in ấn, rồi tranh dân gian, tạo nên những đèn lồng nhiều màu sắc... Khả năng của giấy dó vẫn đang tiếp tục được khai phá. Trong hội họa, trước đó giấy dó chỉ được coi như một chất liệu chuyển tiếp, dùng để ký họa, ghi chép tài liệu, thì nay được coi là chất liệu của sáng tạo, để bề mặt giấy trở thành bức tranh, mang lại hiệu ứng thị giác. Theo họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức: Giấy dó đầy đủ và có nhiều tố chất mà các loại giấy khác không có. Nó là chất liệu mà về giá trị thẩm mỹ và ứng dụng trong nghệ thuật thuận lợi, được nhiều họa sĩ ưa thích. Khách hàng cũng thích tranh giấy dó, phóng túng, dung dị, mộc mạc hơn tranh lụa. Mỹ thuật ứng dụng bằng chất liệu giấy dó hiện nay tương đối phổ biến.

Từng vẽ sơn mài, lụa, màu nước... và có duyên với giấy dó, họa sĩ Lý Trực Sơn, một trong những họa sĩ đầu tiên sáng tác trên giấy dó như một chất liệu nghệ thuật và có triển lãm giấy dó đầu tiên vào những năm 1980 cho rằng, giấy dó có nhiều tính năng để làm hội họa, nhưng chúng ta chưa khai thác hết, như có của quý trong nhà mà chưa biết cách sử dụng. “Khi vẽ trên giấy thì không có độ thấm màu như trên dó, từ đó tôi tìm ra kỹ thuật để đi theo hướng đó. Khả năng tự nhiên của chất liệu đã gợi ý cho nghệ sĩ cách làm”.

Họa sĩ Lý Trực Sơn cho rằng, nếu quảng bá rộng rãi để có thêm nhiều họa sĩ, không chỉ ở Việt Nam, mà cả các nước khác cũng thích vẽ giấy dó, thì sẽ có thêm nguồn tiêu thụ và phát triển nghề giấy truyền thống. Nghệ thuật phát triển, làng nghề có thể tồn tại. Mặt khác, cần có sự tương tác với làng nghề, có sự tham gia của các nhà khoa học. Cách làm dó cắt bớt công đoạn để giảm giá thành như hiện nay gây thiệt hại cho làng nghề. Cần cải tiến quy trình để tốn ít nguyên liệu, bảo vệ môi trường nhưng giấy dó có giá trị cao, được nhiều người ưa thích và ứng dụng nhiều hơn trong cuộc sống đương đại.

Theo Ngọc Phương - ĐBND
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nếp nhà lãng đãng khói hương như chiếc cầu nối với quá khứ. Hồn người tĩnh tại, thong dong hòa quyện miền tâm linh thăm thẳm. Nhưng không phải dịp Tết đến ta mới thấy nhẹ nhàng. Bất cứ khi nào đứng trước ban thờ tiên tổ, bao bộn bề, lo toan đều tự nhiên rũ bỏ, để gia tâm bảo vệ những gì tốt đẹp của tinh thần.

  • Vừa qua, một số cá thể thiên nga đã được thả vào hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc làm này đã gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Dù sau đó, các cá thể thiên nga đã được di chuyển đến một địa điểm khác song từ sự việc này nhiều người tỏ ra băn khoăn bởi hồ Hoàn Kiếm vốn được coi là nơi linh thiêng, hơn nữa hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn còn là Di tích quốc gia đặc biệt.

  • Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.

  • “Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.

  • Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.

  • Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.

  • Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.

  • Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.

  • Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.

  • Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.

  • Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.

  • Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…

  • Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.

  • Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.

  • Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.

  • Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.

  • “Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.

  • Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.

  • Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?

  • Chú trọng phát triển văn hóa đọc tại vùng nông thôn, miền núi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, văn hoá đọc ở trẻ em nói riêng sẽ không thể phát triển rộng lớn nếu hệ thống phát hành sách chỉ tập trung ở thành phố và trẻ em nông thôn, miền núi vẫn còn “đói sách”.