PHẠM HUY LIỆU
Hồi ký
Đầu tháng 9/1968 tôi điều trị ở Bệnh viện Binh trạm 34, tỉnh Saravane, Nam Lào. Viện nằm trong thung lũng. Xung quanh nhiều núi cao rừng già nên cũng ít bị máy bay Mỹ quấy nhiễu.
Ảnh: internet
Đến viện đã mấy ngày vẫn sốt li bì. Người còm nhom. Chưa thể đi lại được. Ngày nào cũng lên cơn sốt, nhưng không toát mồ hôi như sốt rét. Nhiệt độ cao. Đo 40 - 41 độ. Tôi cảm nhận được nó luôn gây đau buốt ở khoang bụng. Nhiều lúc tự nhiên thấy nhói một cái đến rợn người. Hay khi quay người đột ngột cũng thế, nhưng bác sĩ không tin tôi nói. Vì vết thương không có lỗ xuyên vào, chỉ thủng rất nhỏ ở vạt áo trước... đành chịu thua bác sĩ.
Tôi nghĩ đây là mảnh bom rất nhỏ, nhưng sắc nhọn như mũi kim, nên mới buốt rợn người. Tiếc là ở Trường Sơn khi ấy không có máy X quang để chụp. Đã bao lần tôi ngất xỉu vì nó...
Điều trị hai tuần, chắc có tiêm kháng sinh nên đỡ sốt. Tôi đi lại được, liền ra ngoài dạo chơi tắm nắng cho thoải mái, rồi lang thang quanh quẩn một lúc.
Gần lán ở có cây hồng rất nhiều quả, nhưng cây to và cao, không tài nào lấy được. Hơn nữa bác sĩ đã dặn sốt rét không được ăn quả rừng dễ bị quật lại.
Mấy hôm sau buổi trưa vắng vẻ, có đàn chim sáo đang tranh nhau ăn hồng trên cây, quả chín rụng xuống rào rào, tôi nhặt mấy quả ăn thử, quả là rất ngon. Tôi lấy đầy túi quần, rồi tìm chỗ vắng để ăn cho thỏa thích. Đi dọc các lán đến cuối bệnh viện, qua một vạt rừng thưa, gần bờ suối ngay chân núi có một lán bỏ không, vào xem thì thấy có hai cái sạp để nằm. Vào đó ăn vừa kín lại vắng chả ai biết… Thế là tôi nằm lăn trên sạp, bỏ hết hồng ra, vừa ăn vừa cảm nhận hương vị của nó, thơm giòn giống như hồng ngâm ngoài Bắc. Đang thoải mái vô tư, bỗng tự hỏi lán này dành cho ai.
Nhà bảo vệ, không phải vì bên kia suối là núi rồi. Cho ai nữa nhỉ…
Chết rồi! Đây chính là nhà xác không sai. Thấy người hơi rờn rợn. Phải về mau thôi. Để ít quả lại biếu tặng mọi người. Có linh thiêng hãy phù hộ cho những ai còn đang sống nhé.
Ở viện chưa tìm ra nguyên nhân của bệnh. Bác sĩ nói theo chuyên môn. Còn tôi vẫn nghĩ do vết thương chột nơi khoang bụng chính là thủ phạm gây sốt giật.
Đến 20/9/1968, bác sĩ phải cho tôi ra viện Đoàn 559 điều trị tiếp.
Chuyển viện mùa mưa nên mọi người đều phải đi bộ. Tôi đi được khoảng 30 phút thì không theo kịp đoàn, đành quay lại bệnh viện. Chục ngày sau khỏe hơn cố đi ra viện Đoàn 559.
Đi bộ mấy ngày mệt tả tơi thì ngày 5/10/1968 tới viện Đoàn 559 nằm ở Savanakhet (Lào). Nơi rừng già, cây cành đan xen vào nhau kín mít. Ở xa đường tuyến, hơn nữa đang mùa mưa nên cũng ít máy bay. Vết thương vẫn vậy chả khá lên là bao. Khi quay người đột ngột vẫn bị buốt nhói, rồi cũng sốt nhưng chỉ 40 độ trở xuống.
Ở lại không được, ngày 1/11/1968, bệnh viện cử tôi dẫn 11 người ra Bắc điều dưỡng.
Đoàn vừa đi khoảng hơn cây số, đến chỗ rẽ thấy mấy người khiêng liệt sĩ. Liền hỏi nhau có đường nào đi tránh không nhỉ. Một người bảo không có đâu, đi thôi. Với lại sinh dữ tử lành kia mà. Thì ra nó vừa ném bom xong. Chúng tôi đi qua vẫn còn mùi khen khét… Khi đến gần con sông nhỏ đang chuẩn bị cởi quần áo gói ghém buộc trong nilon để bơi, thì một thằng cán gáo bay dọc sông ngay trước mặt. Tôi bảo ta may quá. Chỉ nhanh mươi phút mà đang bơi giữa sông thì nguy to.
Lên bờ đi một đoạn đã gặp bãi trống. Cây cối trụi lủi, chẳng còn chỗ nào mà ẩn nấp. Tôi bảo mọi người phải bám sát nhau. Lúc nào nó bay qua đầu, lúc đó hô nhau chạy. Khi nó bắt đầu lượn vòng lại, tất cả phải nằm im không được cựa quậy.
Dặn dò xong ra nghe ngóng, thấy yên tĩnh nên bảo nhau xuất phát. Đến giữa bãi trống, thì một thằng trực thăng đang lù lù bay tới. Chúng tôi kịp thời nằm xuống, may có những lùm cây lúp xúp đủ cho mọi người nằm ẩn ở đó. Nó bay ngay trên đầu, đến hết bãi trống rồi quành lại. Đợi bay qua hô nhau chạy tiếp. Rất may là nó không lượn vòng lại nữa. Thật hú vía...
Chiều 16/11/1968, đến trạm khách ngay thung lũng. Cây rừng rậm rạp nhưng có vẻ hoang vắng. Đang chuẩn bị ăn thì anh nuôi thông báo cơm hôm nay hơi sạn, vì kho mới bị đánh bom, gạo lẫn sạn nhiều, mà sạn đá, cát trắng... nên dù đãi và nhặt thế nào cũng không hết. Mọi người ăn nhai nhẹ, nếu nhai mạnh có khi gẫy răng.
Quả thật ăn khó nhằn sạn ra được. Thôi thì trếu tráo rồi nuốt chửng để lấy sức mà đi. Sáng sau vẫn thế. Ăn xong lên đường đi tiếp. Anh nuôi đưa mỗi người một nắm cơm bằng quả trứng vịt để ăn trưa. Khi ăn cũng không dám nhai, liền bẻ nhỏ rồi cho vào mồm nuốt chửng... Đó là trạm khách duy nhất ăn cơm không nhai.
Lại có trạm phải vượt núi đá tai mèo. Thang bằng gỗ dựng đứng. Hôm ấy cô gái giao liên dẫn đường nên mọi người khí thế lắm. Khi bám thang tôi nhìn người nọ nối người kia, chân người trên như đạp đầu người dưới…
Cứ thế đi hết trạm này đến trạm khác. Rồi một hôm, trong bữa ăn tối ngày 25/11/1968, cán bộ của trạm thông báo mai vượt dốc Nguyễn Chí Thanh. Dốc vừa cao vừa dài. Vượt qua dốc cũng là một cung đường, sang bên kia trạm ngay cuối dốc. Nhưng vất vả hơn mọi trạm rất nhiều. Các đồng chí chuẩn bị tinh thần, hãy cố gắng vượt qua.
Sáng hôm sau tôi đi tốp đầu. Đây cũng là trạm duy nhất trên đường không cần dừng nghỉ, mà ai mệt ở đâu thì nghỉ ở đó. Không sợ lạc, bởi chỉ có một con đường độc đạo. Chúng tôi hăm hở lên dốc. Chân bước từng bước một cho chắc. May mà chiều qua đã chặt sẵn mỗi người một cái gậy để chống, nên có tác dụng rất tốt.
Càng đi lên dốc, cảm thấy bước đi nặng dần, người cũng khom xuống như lấy đà. Thỉnh thoảng mấy con chim hót véo von trên đầu, rồi mấy chú khỉ đùa nhảy ngay trên cành cũng chả thèm để ý nữa. Giờ thì mồm mũi tranh nhau thở. Gần trưa ì ạch cũng leo lên đỉnh dốc. Đoàn chúng tôi bảo nhau mắc võng trên đỉnh Trường Sơn đúng ngày 29/11/1968. Lấy nắm cơm ra ăn, cảm nhận sao mà ngon tuyệt. Đó cũng là kỷ niệm đẹp nhất được nằm trên đỉnh Trường Sơn của thời quân ngũ... Đung đưa cánh võng rồi chìm trong giấc ngủ lúc nào không hay.
Ngủ một giấc, mấy anh em hô nhau dậy đi tiếp. Chắc xuống dốc sẽ dễ dàng hơn, ai ngờ cũng khó ra phết. Nếu không có gậy thì rắc rối to chứ chả chơi. Tất cả sức nặng đều dồn lên đầu gậy đỡ cho người khỏi lao xuống dốc. Không khác gì mình phải liên tục phanh lại, hãm cho đi từ từ. Nếu trượt chân là lăn xuống vực.
Xế chiều chúng tôi cũng vượt qua hết dốc. Đúng là hú hồn. Chả thế mà đặt tên dốc, lấy tên Đại tướng Nguyễn Chí Thanh để xốc tinh thần lính quả là quá chuẩn. Còn nghe đâu ở Tây Nguyên có dốc Bò Lăn. Chắc là dốc đứng nên mới khủng khiếp thế.
Mấy hôm sau đến một con sông khá rộng, đêm mới có trận mưa to. Nước chảy cuồn cuộn. Đằng nào cũng phải vượt. Chúng tôi bàn nhau cách vượt sông. Ước lượng sức nước chảy để bơi cắt chéo dòng sông. Mọi người nhất trí đi ngược lên 100 mét. Rồi bơi chéo xuống áp sát bờ bên kia, nhanh chóng bám vào cành cây nằm sà xuống sông để lên đường mòn đi tiếp.
Đúng như tính toán, tất cả đều bơi qua sông an toàn.
Cứ thế chúng tôi đi theo giao liên với quãng đường khá dài, từ Savanakhet, qua Khăm Muộn. Chỉ ngày mai là đến trạm 5 Quảng Bình. Ôi Tổ quốc muôn vàn mến yêu, những đứa con đã hoàn thành nhiệm vụ trở về đất mẹ rồi đây!
Sáng 5/12/1968 tạm biệt trạm 6 Lào về Việt Nam. Lòng bồi hồi khó tả. Không thể nghĩ mình có ngày hôm nay.
Đến trạm 5 Quảng Bình khoảng hơn 4 giờ chiều, gặp các anh chào hỏi hồ hởi như đã từng quen nhau từ lâu. Chỉ cho chúng tôi chỗ nghỉ, chỗ mắc võng, nơi đi tắm giặt xong rồi về ăn cơm.
Xuống nhà bếp thấy cơm trắng tinh. Thịt hộp nấu rau rừng trông sao mà ngon thế. Đoàn chúng tôi có 11 người, các anh cho hai mâm, còn cơm xới đầy thúng khiêng ra ăn thoải mái. Ăn hết nhẵn cả thúng cơm mà vẫn thấy thòm thèm. Anh nuôi hỏi các đồng chí no chưa. Mọi người cười bảo chưa ạ. Anh nuôi lại cho hẳn hai mâm 6 nữa. Bọn tôi đua nhau ăn. Một lúc cũng hết luôn. Cả trạm trố mắt nhìn thán phục, anh nuôi hỏi có ai làm sao không. Tất cả trả lời không sao ạ. Thế mới no... Cám ơn các anh nhiều!
Khi nằm võng hỏi nhau mày ăn mấy bát. Thì người ít nhất cũng sáu, bảy bát B52. Còn người nhiều tới chục bát... Quả là kỷ niệm có một không hai trên đời. Kỷ niệm một thời xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Biết bao gian khổ hy sinh. Đói cơm rách áo, rồi sốt rừng vàng mắt vàng da. Chân đi không nổi chỉ còn nắm da bọc xương, khắp người ghẻ lở hắc lào… trông mà phát khiếp. Nhưng Trường Sơn mãi khắc ghi vào tâm trí những người lính Trường Sơn.
Sau này những kỷ niệm Trường Sơn luôn ùa về trong những giấc mơ, trong tâm trí của tôi. Bao nhiêu gian khổ, hy sinh, của đời lính, trước cảnh hoang tàn, những thời khắc chiến tranh ác liệt đến rùng rợn... Hình ảnh Trường Sơn và tình đồng đội mãi mãi in đậm trong ký ức đời lính, vừa đẹp, vừa hào hùng... Cũng là niềm tự hào một thời mình được mang danh hiệu anh bộ đội Cụ Hồ!
P.H.L
(TCSH414/08-2023)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).