Trường Sơn một thời để nhớ

14:44 31/08/2023

PHẠM HUY LIỆU
                 Hồi ký

Đầu tháng 9/1968 tôi điều trị ở Bệnh viện Binh trạm 34, tỉnh Saravane, Nam Lào. Viện nằm trong thung lũng. Xung quanh nhiều núi cao rừng già nên cũng ít bị máy bay Mỹ quấy nhiễu.

Ảnh: internet

Đến viện đã mấy ngày vẫn sốt li bì. Người còm nhom. Chưa thể đi lại được. Ngày nào cũng lên cơn sốt, nhưng không toát mồ hôi như sốt rét. Nhiệt độ cao. Đo 40 - 41 độ. Tôi cảm nhận được nó luôn gây đau buốt ở khoang bụng. Nhiều lúc tự nhiên thấy nhói một cái đến rợn người. Hay khi quay người đột ngột cũng thế, nhưng bác sĩ không tin tôi nói. Vì vết thương không có lỗ xuyên vào, chỉ thủng rất nhỏ ở vạt áo trước... đành chịu thua bác sĩ.

Tôi nghĩ đây là mảnh bom rất nhỏ, nhưng sắc nhọn như mũi kim, nên mới buốt rợn người. Tiếc là ở Trường Sơn khi ấy không có máy X quang để chụp. Đã bao lần tôi ngất xỉu vì nó...

Điều trị hai tuần, chắc có tiêm kháng sinh nên đỡ sốt. Tôi đi lại được, liền ra ngoài dạo chơi tắm nắng cho thoải mái, rồi lang thang quanh quẩn một lúc.

Gần lán ở có cây hồng rất nhiều quả, nhưng cây to và cao, không tài nào lấy được. Hơn nữa bác sĩ đã dặn sốt rét không được ăn quả rừng dễ bị quật lại.

Mấy hôm sau buổi trưa vắng vẻ, có đàn chim sáo đang tranh nhau ăn hồng trên cây, quả chín rụng xuống rào rào, tôi nhặt mấy quả ăn thử, quả là rất ngon. Tôi lấy đầy túi quần, rồi tìm chỗ vắng để ăn cho thỏa thích. Đi dọc các lán đến cuối bệnh viện, qua một vạt rừng thưa, gần bờ suối ngay chân núi có một lán bỏ không, vào xem thì thấy có hai cái sạp để nằm. Vào đó ăn vừa kín lại vắng chả ai biết… Thế là tôi nằm lăn trên sạp, bỏ hết hồng ra, vừa ăn vừa cảm nhận hương vị của nó, thơm giòn giống như hồng ngâm ngoài Bắc. Đang thoải mái vô tư, bỗng tự hỏi lán này dành cho ai.

Nhà bảo vệ, không phải vì bên kia suối là núi rồi. Cho ai nữa nhỉ…

Chết rồi! Đây chính là nhà xác không sai. Thấy người hơi rờn rợn. Phải về mau thôi. Để ít quả lại biếu tặng mọi người. Có linh thiêng hãy phù hộ cho những ai còn đang sống nhé.

Ở viện chưa tìm ra nguyên nhân của bệnh. Bác sĩ nói theo chuyên môn. Còn tôi vẫn nghĩ do vết thương chột nơi khoang bụng chính là thủ phạm gây sốt giật.

Đến 20/9/1968, bác sĩ phải cho tôi ra viện Đoàn 559 điều trị tiếp.

Chuyển viện mùa mưa nên mọi người đều phải đi bộ. Tôi đi được khoảng 30 phút thì không theo kịp đoàn, đành quay lại bệnh viện. Chục ngày sau khỏe hơn cố đi ra viện Đoàn 559.

Đi bộ mấy ngày mệt tả tơi thì ngày 5/10/1968 tới viện Đoàn 559 nằm ở Savanakhet (Lào). Nơi rừng già, cây cành đan xen vào nhau kín mít. Ở xa đường tuyến, hơn nữa đang mùa mưa nên cũng ít máy bay. Vết thương vẫn vậy chả khá lên là bao. Khi quay người đột ngột vẫn bị buốt nhói, rồi cũng sốt nhưng chỉ 40 độ trở xuống.

Ở lại không được, ngày 1/11/1968, bệnh viện cử tôi dẫn 11 người ra Bắc điều dưỡng.

Đoàn vừa đi khoảng hơn cây số, đến chỗ rẽ thấy mấy người khiêng liệt sĩ. Liền hỏi nhau có đường nào đi tránh không nhỉ. Một người bảo không có đâu, đi thôi. Với lại sinh dữ tử lành kia mà. Thì ra nó vừa ném bom xong. Chúng tôi đi qua vẫn còn mùi khen khét… Khi đến gần con sông nhỏ đang chuẩn bị cởi quần áo gói ghém buộc trong nilon để bơi, thì một thằng cán gáo bay dọc sông ngay trước mặt. Tôi bảo ta may quá. Chỉ nhanh mươi phút mà đang bơi giữa sông thì nguy to.

Lên bờ đi một đoạn đã gặp bãi trống. Cây cối trụi lủi, chẳng còn chỗ nào mà ẩn nấp. Tôi bảo mọi người phải bám sát nhau. Lúc nào nó bay qua đầu, lúc đó hô nhau chạy. Khi nó bắt đầu lượn vòng lại, tất cả phải nằm im không được cựa quậy.

Dặn dò xong ra nghe ngóng, thấy yên tĩnh nên bảo nhau xuất phát. Đến giữa bãi trống, thì một thằng trực thăng đang lù lù bay tới. Chúng tôi kịp thời nằm xuống, may có những lùm cây lúp xúp đủ cho mọi người nằm ẩn ở đó. Nó bay ngay trên đầu, đến hết bãi trống rồi quành lại. Đợi bay qua hô nhau chạy tiếp. Rất may là nó không lượn vòng lại nữa. Thật hú vía...

Chiều 16/11/1968, đến trạm khách ngay thung lũng. Cây rừng rậm rạp nhưng có vẻ hoang vắng. Đang chuẩn bị ăn thì anh nuôi thông báo cơm hôm nay hơi sạn, vì kho mới bị đánh bom, gạo lẫn sạn nhiều, mà sạn đá, cát trắng... nên dù đãi và nhặt thế nào cũng không hết. Mọi người ăn nhai nhẹ, nếu nhai mạnh có khi gẫy răng.

Quả thật ăn khó nhằn sạn ra được. Thôi thì trếu tráo rồi nuốt chửng để lấy sức mà đi. Sáng sau vẫn thế. Ăn xong lên đường đi tiếp. Anh nuôi đưa mỗi người một nắm cơm bằng quả trứng vịt để ăn trưa. Khi ăn cũng không dám nhai, liền bẻ nhỏ rồi cho vào mồm nuốt chửng... Đó là trạm khách duy nhất ăn cơm không nhai.

Lại có trạm phải vượt núi đá tai mèo. Thang bằng gỗ dựng đứng. Hôm ấy cô gái giao liên dẫn đường nên mọi người khí thế lắm. Khi bám thang tôi nhìn người nọ nối người kia, chân người trên như đạp đầu người dưới…

Cứ thế đi hết trạm này đến trạm khác. Rồi một hôm, trong bữa ăn tối ngày 25/11/1968, cán bộ của trạm thông báo mai vượt dốc Nguyễn Chí Thanh. Dốc vừa cao vừa dài. Vượt qua dốc cũng là một cung đường, sang bên kia trạm ngay cuối dốc. Nhưng vất vả hơn mọi trạm rất nhiều. Các đồng chí chuẩn bị tinh thần, hãy cố gắng vượt qua.

Sáng hôm sau tôi đi tốp đầu. Đây cũng là trạm duy nhất trên đường không cần dừng nghỉ, mà ai mệt ở đâu thì nghỉ ở đó. Không sợ lạc, bởi chỉ có một con đường độc đạo. Chúng tôi hăm hở lên dốc. Chân bước từng bước một cho chắc. May mà chiều qua đã chặt sẵn mỗi người một cái gậy để chống, nên có tác dụng rất tốt.

Càng đi lên dốc, cảm thấy bước đi nặng dần, người cũng khom xuống như lấy đà. Thỉnh thoảng mấy con chim hót véo von trên đầu, rồi mấy chú khỉ đùa nhảy ngay trên cành cũng chả thèm để ý nữa. Giờ thì mồm mũi tranh nhau thở. Gần trưa ì ạch cũng leo lên đỉnh dốc. Đoàn chúng tôi bảo nhau mắc võng trên đỉnh Trường Sơn đúng ngày 29/11/1968. Lấy nắm cơm ra ăn, cảm nhận sao mà ngon tuyệt. Đó cũng là kỷ niệm đẹp nhất được nằm trên đỉnh Trường Sơn của thời quân ngũ... Đung đưa cánh võng rồi chìm trong giấc ngủ lúc nào không hay.

Ngủ một giấc, mấy anh em hô nhau dậy đi tiếp. Chắc xuống dốc sẽ dễ dàng hơn, ai ngờ cũng khó ra phết. Nếu không có gậy thì rắc rối to chứ chả chơi. Tất cả sức nặng đều dồn lên đầu gậy đỡ cho người khỏi lao xuống dốc. Không khác gì mình phải liên tục phanh lại, hãm cho đi từ từ. Nếu trượt chân là lăn xuống vực.

Xế chiều chúng tôi cũng vượt qua hết dốc. Đúng là hú hồn. Chả thế mà đặt tên dốc, lấy tên Đại tướng Nguyễn Chí Thanh để xốc tinh thần lính quả là quá chuẩn. Còn nghe đâu ở Tây Nguyên có dốc Bò Lăn. Chắc là dốc đứng nên mới khủng khiếp thế.

Mấy hôm sau đến một con sông khá rộng, đêm mới có trận mưa to. Nước chảy cuồn cuộn. Đằng nào cũng phải vượt. Chúng tôi bàn nhau cách vượt sông. Ước lượng sức nước chảy để bơi cắt chéo dòng sông. Mọi người nhất trí đi ngược lên 100 mét. Rồi bơi chéo xuống áp sát bờ bên kia, nhanh chóng bám vào cành cây nằm sà xuống sông để lên đường mòn đi tiếp.

Đúng như tính toán, tất cả đều bơi qua sông an toàn.

Cứ thế chúng tôi đi theo giao liên với quãng đường khá dài, từ Savanakhet, qua Khăm Muộn. Chỉ ngày mai là đến trạm 5 Quảng Bình. Ôi Tổ quốc muôn vàn mến yêu, những đứa con đã hoàn thành nhiệm vụ trở về đất mẹ rồi đây!

Sáng 5/12/1968 tạm biệt trạm 6 Lào về Việt Nam. Lòng bồi hồi khó tả. Không thể nghĩ mình có ngày hôm nay.

Đến trạm 5 Quảng Bình khoảng hơn 4 giờ chiều, gặp các anh chào hỏi hồ hởi như đã từng quen nhau từ lâu. Chỉ cho chúng tôi chỗ nghỉ, chỗ mắc võng, nơi đi tắm giặt xong rồi về ăn cơm.

Xuống nhà bếp thấy cơm trắng tinh. Thịt hộp nấu rau rừng trông sao mà ngon thế. Đoàn chúng tôi có 11 người, các anh cho hai mâm, còn cơm xới đầy thúng khiêng ra ăn thoải mái. Ăn hết nhẵn cả thúng cơm mà vẫn thấy thòm thèm. Anh nuôi hỏi các đồng chí no chưa. Mọi người cười bảo chưa ạ. Anh nuôi lại cho hẳn hai mâm 6 nữa. Bọn tôi đua nhau ăn. Một lúc cũng hết luôn. Cả trạm trố mắt nhìn thán phục, anh nuôi hỏi có ai làm sao không. Tất cả trả lời không sao ạ. Thế mới no... Cám ơn các anh nhiều!

Khi nằm võng hỏi nhau mày ăn mấy bát. Thì người ít nhất cũng sáu, bảy bát B52. Còn người nhiều tới chục bát... Quả là kỷ niệm có một không hai trên đời. Kỷ niệm một thời xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Biết bao gian khổ hy sinh. Đói cơm rách áo, rồi sốt rừng vàng mắt vàng da. Chân đi không nổi chỉ còn nắm da bọc xương, khắp người ghẻ lở hắc lào… trông mà phát khiếp. Nhưng Trường Sơn mãi khắc ghi vào tâm trí những người lính Trường Sơn.

Sau này những kỷ niệm Trường Sơn luôn ùa về trong những giấc mơ, trong tâm trí của tôi. Bao nhiêu gian khổ, hy sinh, của đời lính, trước cảnh hoang tàn, những thời khắc chiến tranh ác liệt đến rùng rợn... Hình ảnh Trường Sơn và tình đồng đội mãi mãi in đậm trong ký ức đời lính, vừa đẹp, vừa hào hùng... Cũng là niềm tự hào một thời mình được mang danh hiệu anh bộ đội Cụ Hồ!

P.H.L
(TCSH414/08-2023)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Chiều 15-4-89, 14 giờ. Phòng họp của Hội VHNT Bình Trị Thiên đã chật hết chỗ, nhiều người ngồi lên bậc cửa sổ.

  • HỒ VĨNH

    Nhà báo Nguyễn Cửu Thạnh sinh ngày 15/6/1905 tại Phú Hội, thành phố Huế. Thuở thiếu thời ông là người ngay thẳng, vui tính, thích văn chương nghệ thuật; ông bước vào nghề báo từ năm 1929 và tham gia hoạt động tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ tại Huế và hoạt động báo chí do Xứ ủy Trung kỳ chỉ đạo.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Trong lịch sử xây dựng tổ chức văn nghệ trên đất Cố đô Huế 70 năm qua, nơi ghi dấu nhiều sự kiện, nhiều kỷ niệm nhất hẳn là ngôi nhà 26 Lê Lợi, bên bờ nam sông Hương.

  • Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điếu văn linh mục Phạm Bá Trực.

  • Từ Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn, cụ Bùi Bằng Đoàn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc, của chế độ cũ - mới để tham gia chính quyền cách mạng.

  • HOÀNG VŨ THUẬT
                    Bút ký

    Hồi ấy tôi cũng là ông giáo làng, sáng đi tối về. Chiến tranh như cái máy ủi đã san phẳng bất cứ thứ gì dựng lên trên mặt đất.

  • Văn Cao là một trong những nhạc sĩ thuộc lớp tiền bối của nền tân nhạc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông luôn gắn chặt và hoà trộn với dòng chảy lịch sử của dân tộc. Nhiều tác phẩm của ông đã trở thành di sản âm nhạc quý báu của nước nhà. Trong đó, có tác phẩm Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam – mà ông là tác giả.

  • PHAN QUANG
                Hồi ký

    Vua Hàm Nghi ghé làng tôi. Vua nghỉ lại ở nhà tôi. Điều đó xảy ra một trăm năm về trước. Và nhà ấy là nhà của ông nội tôi.

  • Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Bà là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002), có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 5.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...)

  • KỶ NIỆM 68 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ (27/7/1949 - 2015)

    PHẠM HỮU THU 

    Trước khi ông Lê Sáu, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế qua đời, tôi may mắn được ông kể cho nghe nhiều chuyện, phần lớn là những ân tình mà đồng bào, đồng chí đã dành cho cách mạng trong những năm ác liệt của chiến tranh, nhất là những tấm gương lặng lẽ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

  • PHAN NAM SINH

    Thầy tôi mất trưa hôm 16/1/1959 tại số nhà 73 phố Thuốc Bắc - Hà Nội. Sau khi cùng các anh chị tôi lo xong đám tang cho ông, mẹ tôi thu dọn tất cả số sách báo, sổ tay ghi chép, di cảo... của ông để lại vào trong hai chiếc va li loại lớn được ông mang về từ lần đi Trung Quốc dự lễ tưởng niệm 20 năm ngày mất của Lỗ Tấn.

  • Nhiều người Huế ngày trước thuờng ngâm nga câu hát: “ Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi/ Cô đi về đâu tan buổi học rồi?/ Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao/ Cô về Bến Ngự hay về Đông Ba / Cô về Vĩ Dạ hay ngược Kim Luông/… Tôi mơ một bóng khi về đơn côi/ Áo dài dáng đẹp tóc còn buông lơi/ Ghi một kỷ niệm cuộc đời trong tôi”.

  • BÙI KIM CHI 

    Vào Thành nội, hai con đường nhỏ hai bên hông trường trung học Hàm Nghi có lá phượng bay, có vòm nhãn che đường làm nền cho ngôi trường uy nghi, bề thế nằm ở giữa. Trước cổng trường có con đường nhỏ chạy ngang qua với hai hàng mù u lấp lánh nắng vàng tươi chụm đầu vào nhau nghe và thủ thỉ chuyện học trò.

  • THÁI KIM LAN

    Từ xa nhận được hung tin Thầy nhập viện trong tình trạng nguy cập, tôi nôn nóng muốn về, hi vọng được gặp lại Thầy.

  • HƯỚNG ĐẾN KỶ NIỆM 70 NĂM HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ

    LÊ TRỌNG SÂM

  • 90 NĂM BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM(21/6/1925 - 2015)

    THANH NGỌC

    Sự hình thành và phát triển của Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) Thừa Thiên Huế kể từ khi ra đời đến nay đã gắn bó rất chặt với đời sống báo chí. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi những mầm xanh của VHNT rất cần được gieo trồng trên cánh đồng báo chí. Điều khác nữa, Huế - vùng đất từng là “thủ đô văn hóa” của cả nước, nơi báo chí phát triển cực thịnh mấy chục năm từ trước 1945 đến 1975, các nhà văn hoạt động mạnh mẽ trên lĩnh vực báo chí là lẽ đương nhiên.

  • TRANG ĐOAN

    “Một tiếng lôi đình kinh vũ trụ
    Tấm gương trung nghĩa động thần minh.”[1]

     

  • Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tối 19/5 kênh VTV1 đã trình chiếu bộ phim tài liệu: Hồ Chí Minh - Bài ca Tự do. Có thể khẳng định: đây là một trong những bộ phim tài liệu đặc sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh mà tôi đã từng được xem.

  • NSND Trà Giang chia sẻ ký ức và cảm xúc về bức ảnh được chụp cùng Bác Hồ năm 1962.

  • Tháng 3-4/1975 Phó Cục trưởng Cục Quân nhu Từ Giấy và con trai Từ Đễ cùng hướng tới Sài Gòn bằng con đường khác nhau: người cha đi theo đường mòn Hồ Chí Minh, người con đi bằng máy bay.