Trùng tu đình làng - Có tâm, có tiền là chưa đủ

08:08 04/07/2019

Thời gian qua, không ít ngôi đình sau khi tu bổ đã bị biến dạng, thêm hoặc thay mới tùy tiện; thậm chí có những ngôi đình được trùng tu một cách khoa học, nhưng sau đó vẫn bị can thiệp làm mất đi yếu tố gốc. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là cách làm phản khoa học, hủy hoại các di tích cổ…

Đình Trần Đăng - Ảnh: KTS. Lý Trực Dũng

Trùng tu tốt, giữ gìn khó

Làng xã có sớm, nhưng đình làng - ngôi nhà cộng đồng - phải đến thế kỷ XVI mới được xây dựng. Theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Thế kỷ XVII, các làng xã đất rộng người thưa, chỉ khoảng 100 người/làng; đến những năm 1930, ở đồng bằng Bắc Bộ, dân số mới lên đến 300 người/làng. Như vậy, ngôi đình là sản phẩm đóng góp không nhỏ của nhân dân các làng. Đình được các nhà nghiên cứu xác định có 3 thời kỳ xây dựng chính là thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Cho đến nay chỉ còn lại vài ngôi đình ở thế kỷ XVI, như Tây Đằng, Lỗ Hạnh, Trường Phiêu, Thanh Lũng…

Thường qua khoảng 300 năm, trong điều kiện nóng ẩm của Việt Nam, gỗ tốt cũng bị tiêu hủy. Do đó, để các ngôi đình đứng sừng sững nhiều thế kỷ, trước đây, vài chục năm đến trăm năm, các làng phải duy tu cho bền chắc, thay thế những chỗ mục hỏng. KTS. Trần Huy Ánh, Hội Kiến trúc sư Hà Nội cho biết, phương pháp truyền thống của các cụ ngày xưa là không bao giờ làm mới toàn bộ, hỏng đâu thay đấy, từ những chi tiết nhỏ nhất. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều ngôi đình trùng tu sai, trùng tu ẩu, kém hiệu quả. Có những ngôi đình được hạ giải để trùng tu nhưng lại giống như đập đi xây mới; một số đình làng dùng sơn đỏ công nghiệp sơn lại toàn bộ hoặc một phần… làm mất vẻ đẹp của di tích.

Không những vậy, như đình làng Chu Quyến tuy được trùng tu và từng nhận giải thưởng về Bảo tồn di sản của Hiệp hội Kiến trúc sư Quốc tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (2010) hay đình Trần Đăng (xã Hòa Sơn, Ứng Hòa, Hà Nội) bảo tồn tối đa yếu tố nguyên gốc nhờ trùng tu không cần hạ giải (năm 2009)... thì việc giữ gìn nét đẹp di sản sau đó vẫn là thách thức. Với đình Chu Quyến, các ngôi nhà cao tầng đã vươn cao hơn mái đình, cảnh quan đình làng đang bị phá vỡ bởi xu hướng đô thị hóa. Hay với đình Trần Đăng, sau khi trùng tu, những người quản lý đã xây dựng thêm tiền tế với mái tôn đỏ rực choán hết lối vào (hiện mái tôn đã được tháo dỡ nhưng khung sắt vẫn giữ nguyên), rồi gắn thêm máng thoát nước ngay trên mái… Vì thế, di sản đã trùng tu, nhưng ứng xử với di sản như thế nào cũng cần được quan tâm.

Hiểu biết thì đình còn

 Đình làng ra đời với ba chức năng: Thờ Thành Hoàng làng, trụ sở hành chính và tổ chức hội lễ. Ngô Thì Nhậm viết: “Trời lấy đình để nuôi muôn vật. Đất lấy đình để chứa muôn loài. Người ta lấy đình làm nơi tụ họp”. Có nhà nghiên cứu cho rằng, đình làng và điêu khắc đình làng là sản phẩm duy nhất nói rõ tính cách Việt. Trong đó, điêu khắc đình làng là phần quan trọng, xác định vai trò văn hóa nghệ thuật của ngôi đình đối với văn hóa và nghệ thuật Việt Nam, đến mức, người ta nhìn thấy ở đó sự thuần Việt, phi tôn giáo, hơn các công trình kiến trúc và điêu khắc khác.

Thời gian qua, việc trùng tu một số di sản nhận được sự quan tâm rất lớn của không chỉ nhà chuyên môn, nhà quản lý, mà còn cả dư luận xã hội. Thực tế, đã có những công trình đình làng được trùng tu một cách khoa học, giữ được tối đa yếu tố nguyên gốc, nhưng chỉ là số ít, còn trùng tu ẩu, sai thì nhiều.

Là người trực tiếp tham gia thi công trùng tu đình Trần Đăng, KTS. Lý Trực Dũng cho rằng: Bảo tồn trùng tu di tích là vấn đề khoa học liên quan đến các lĩnh vực kiến trúc, lịch sử, nghệ thuật, không tương đồng với sửa chữa nhà cửa. Công tác trùng tu phải dựa trên công tác khảo cổ, nghiên cứu, đánh giá, lập hồ sơ đầy đủ trước khi can thiệp vào di tích. Bảo tồn, trùng tu ưu tiên sử dụng các vật liệu, chất liệu truyền thống và các quy trình kỹ thuật thi công truyền thống, hạn chế càng nhiều càng tốt sự can thiệp vào di tích. Bởi vậy, khi trùng tu đình Trần Đăng, một giàn giáo đặc biệt chống đỡ gần một nửa mái đình đã được thiết kế và thi công tại chỗ, giúp thợ mộc thay được câu đầu, cột cái, kèo xó… mà không cần hạ giải, hạn chế ảnh hưởng đến yếu tố gốc.

Mỗi đình làng là kho lịch sử, gửi gắm biết bao tình cảm, trí tuệ của tổ tiên, cần được gìn giữ. Tuy nhiên, KTS. Trần Huy Ánh cho rằng, khi trùng tu, bảo tồn, phải xem nhân dân làng cần gì, cấu trúc làng xã đang biến đổi như thế nào. Điều tích cực là hiện nay có công nghệ mới, các chi tiết, cấu kiện có thể làm nhanh, nhưng “hỏng” là từ tiếp cận. Có thể khẳng định, về bảo tồn di tích, chúng ta làm được, nhưng muốn làm hay không mà thôi. Thực tế cho thấy, những người quản lý, trông coi có hiểu biết thì di tích mới còn!

Không phải cứ có tâm hoặc có tiền là tu bổ, tôn tạo được di tích, quan trọng là phải có nhân lực có trí tuệ, thực hiện một cách khoa học mới giữ được vốn di sản cho các thế hệ sau. Theo dõi các công trình được trùng tu thời gian qua, PGS.TS. Nguyễn Văn Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa cho rằng, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản đứng trước nhiều thách thức. Đó là nhận thức của xã hội, cộng đồng với di sản chưa chính xác, phụ thuộc vào các nhu cầu khác nhau, dẫn tới quá trình trùng tu làm thay đổi di tích khá nhiều. Do đó, phải nâng cao nhận thức cộng đồng, tác động đến những nhà quản lý và trực tiếp bảo vệ di sản...

Nhiều chuyên gia cũng hy vọng không chỉ Luật Di sản văn hóa và các quy định về trùng tu, mà những bài học kinh nghiệm trùng tu ở đình, đền, chùa được thực hiện với kỹ thuật tốt, có quan niệm đúng, được phổ biến rộng rãi, để cộng đồng và các nhà quản lý văn hóa rút được những bài học hữu ích trong công tác bảo tồn.

Theo Thảo Nguyên - ĐBND
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • “Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

  • Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.

  • Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?

  • Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.

  • Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.

  • Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…

  • Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”

  • Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.

  • Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.

  • L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.

  • Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.

  • Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...

  • Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.

  • Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

  • Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thì trong tài nguyên, cũng có tài nguyên phi vật thể- tài nguyên con người.

  • Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.

  • Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.

  • Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.