Thời gian qua, không ít ngôi đình sau khi tu bổ đã bị biến dạng, thêm hoặc thay mới tùy tiện; thậm chí có những ngôi đình được trùng tu một cách khoa học, nhưng sau đó vẫn bị can thiệp làm mất đi yếu tố gốc. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là cách làm phản khoa học, hủy hoại các di tích cổ…
Đình Trần Đăng - Ảnh: KTS. Lý Trực Dũng
Trùng tu tốt, giữ gìn khó
Làng xã có sớm, nhưng đình làng - ngôi nhà cộng đồng - phải đến thế kỷ XVI mới được xây dựng. Theo nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng: Thế kỷ XVII, các làng xã đất rộng người thưa, chỉ khoảng 100 người/làng; đến những năm 1930, ở đồng bằng Bắc Bộ, dân số mới lên đến 300 người/làng. Như vậy, ngôi đình là sản phẩm đóng góp không nhỏ của nhân dân các làng. Đình được các nhà nghiên cứu xác định có 3 thời kỳ xây dựng chính là thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Cho đến nay chỉ còn lại vài ngôi đình ở thế kỷ XVI, như Tây Đằng, Lỗ Hạnh, Trường Phiêu, Thanh Lũng…
Thường qua khoảng 300 năm, trong điều kiện nóng ẩm của Việt Nam, gỗ tốt cũng bị tiêu hủy. Do đó, để các ngôi đình đứng sừng sững nhiều thế kỷ, trước đây, vài chục năm đến trăm năm, các làng phải duy tu cho bền chắc, thay thế những chỗ mục hỏng. KTS. Trần Huy Ánh, Hội Kiến trúc sư Hà Nội cho biết, phương pháp truyền thống của các cụ ngày xưa là không bao giờ làm mới toàn bộ, hỏng đâu thay đấy, từ những chi tiết nhỏ nhất. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều ngôi đình trùng tu sai, trùng tu ẩu, kém hiệu quả. Có những ngôi đình được hạ giải để trùng tu nhưng lại giống như đập đi xây mới; một số đình làng dùng sơn đỏ công nghiệp sơn lại toàn bộ hoặc một phần… làm mất vẻ đẹp của di tích.
Không những vậy, như đình làng Chu Quyến tuy được trùng tu và từng nhận giải thưởng về Bảo tồn di sản của Hiệp hội Kiến trúc sư Quốc tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương (2010) hay đình Trần Đăng (xã Hòa Sơn, Ứng Hòa, Hà Nội) bảo tồn tối đa yếu tố nguyên gốc nhờ trùng tu không cần hạ giải (năm 2009)... thì việc giữ gìn nét đẹp di sản sau đó vẫn là thách thức. Với đình Chu Quyến, các ngôi nhà cao tầng đã vươn cao hơn mái đình, cảnh quan đình làng đang bị phá vỡ bởi xu hướng đô thị hóa. Hay với đình Trần Đăng, sau khi trùng tu, những người quản lý đã xây dựng thêm tiền tế với mái tôn đỏ rực choán hết lối vào (hiện mái tôn đã được tháo dỡ nhưng khung sắt vẫn giữ nguyên), rồi gắn thêm máng thoát nước ngay trên mái… Vì thế, di sản đã trùng tu, nhưng ứng xử với di sản như thế nào cũng cần được quan tâm.
Hiểu biết thì đình còn
Đình làng ra đời với ba chức năng: Thờ Thành Hoàng làng, trụ sở hành chính và tổ chức hội lễ. Ngô Thì Nhậm viết: “Trời lấy đình để nuôi muôn vật. Đất lấy đình để chứa muôn loài. Người ta lấy đình làm nơi tụ họp”. Có nhà nghiên cứu cho rằng, đình làng và điêu khắc đình làng là sản phẩm duy nhất nói rõ tính cách Việt. Trong đó, điêu khắc đình làng là phần quan trọng, xác định vai trò văn hóa nghệ thuật của ngôi đình đối với văn hóa và nghệ thuật Việt Nam, đến mức, người ta nhìn thấy ở đó sự thuần Việt, phi tôn giáo, hơn các công trình kiến trúc và điêu khắc khác. |
Thời gian qua, việc trùng tu một số di sản nhận được sự quan tâm rất lớn của không chỉ nhà chuyên môn, nhà quản lý, mà còn cả dư luận xã hội. Thực tế, đã có những công trình đình làng được trùng tu một cách khoa học, giữ được tối đa yếu tố nguyên gốc, nhưng chỉ là số ít, còn trùng tu ẩu, sai thì nhiều.
Là người trực tiếp tham gia thi công trùng tu đình Trần Đăng, KTS. Lý Trực Dũng cho rằng: Bảo tồn trùng tu di tích là vấn đề khoa học liên quan đến các lĩnh vực kiến trúc, lịch sử, nghệ thuật, không tương đồng với sửa chữa nhà cửa. Công tác trùng tu phải dựa trên công tác khảo cổ, nghiên cứu, đánh giá, lập hồ sơ đầy đủ trước khi can thiệp vào di tích. Bảo tồn, trùng tu ưu tiên sử dụng các vật liệu, chất liệu truyền thống và các quy trình kỹ thuật thi công truyền thống, hạn chế càng nhiều càng tốt sự can thiệp vào di tích. Bởi vậy, khi trùng tu đình Trần Đăng, một giàn giáo đặc biệt chống đỡ gần một nửa mái đình đã được thiết kế và thi công tại chỗ, giúp thợ mộc thay được câu đầu, cột cái, kèo xó… mà không cần hạ giải, hạn chế ảnh hưởng đến yếu tố gốc.
Mỗi đình làng là kho lịch sử, gửi gắm biết bao tình cảm, trí tuệ của tổ tiên, cần được gìn giữ. Tuy nhiên, KTS. Trần Huy Ánh cho rằng, khi trùng tu, bảo tồn, phải xem nhân dân làng cần gì, cấu trúc làng xã đang biến đổi như thế nào. Điều tích cực là hiện nay có công nghệ mới, các chi tiết, cấu kiện có thể làm nhanh, nhưng “hỏng” là từ tiếp cận. Có thể khẳng định, về bảo tồn di tích, chúng ta làm được, nhưng muốn làm hay không mà thôi. Thực tế cho thấy, những người quản lý, trông coi có hiểu biết thì di tích mới còn!
Không phải cứ có tâm hoặc có tiền là tu bổ, tôn tạo được di tích, quan trọng là phải có nhân lực có trí tuệ, thực hiện một cách khoa học mới giữ được vốn di sản cho các thế hệ sau. Theo dõi các công trình được trùng tu thời gian qua, PGS.TS. Nguyễn Văn Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát huy giá trị di sản văn hóa cho rằng, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản đứng trước nhiều thách thức. Đó là nhận thức của xã hội, cộng đồng với di sản chưa chính xác, phụ thuộc vào các nhu cầu khác nhau, dẫn tới quá trình trùng tu làm thay đổi di tích khá nhiều. Do đó, phải nâng cao nhận thức cộng đồng, tác động đến những nhà quản lý và trực tiếp bảo vệ di sản...
Nhiều chuyên gia cũng hy vọng không chỉ Luật Di sản văn hóa và các quy định về trùng tu, mà những bài học kinh nghiệm trùng tu ở đình, đền, chùa được thực hiện với kỹ thuật tốt, có quan niệm đúng, được phổ biến rộng rãi, để cộng đồng và các nhà quản lý văn hóa rút được những bài học hữu ích trong công tác bảo tồn.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!