Trò vui dân gian ngày xuân thuở xưa và ý nghĩa nhân văn của nó

15:03 04/08/2008
TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.

Tết vui không phải chỉ bởi có:
 Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ.
 Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
 
những thứ mà ngày thường ít xuất hiện trong đời sống gia đình, làng xóm...
 Tết còn là cơ hội để nam, phụ, lão, ấu nghỉ ngơi và tổ chức các sinh hoạt vui chơi giải trí...
 Thuở xưa, người Việt Nam sau lũy tre xanh quanh năm chân lấm tay bùn, đầu tắt mặt tối nơi ruộng đồng, đầm phá, sông biển, núi đồi... kiếm miếng cơm, manh áo. Họ ít được nghỉ ngơi và cũng ít khi được thảnh thơi, được rảnh rang để tổ chức các sinh hoạt văn hóa tinh thần. Tết đến mọi công việc cấy cày, chài lưới, buôn bán... tạm dừng, tạm gác lại một bên. Nhà nhà lo việc sửa sang đường ngõ sạch sẽ, phong quang, sắp xếp trang hoàng lại cửa nhà sao cho gọn gàng đẹp đẽ và chuẩn bị cỗ bàn, bánh trái,. .v..v.. để lễ cúng tổ tiên, để tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Cùng với những công việc ấy, hầu hết các làng xã đều tổ chức các trò vui để mọi người cùng vui vẻ, cùng thi tài, thử sức. Phong phú và đa dạng nhất phải kể đến các trò chơi dân gian. Có thể chia các trò vui này thành mấy loại sau:
 - Trò vui mang tính trí tuệ.
 - Trò vui rèn luyện cơ bắp và sự nhanh nhạy, khéo léo.
 - Trò vui có liên quan đến thơ ca và hát hò...
 - Trò vui sử dụng các con vật, đồ vật nhằm giải trí, mua vui.
 Tùy từng loại trò vui mà không gian diễn xướng rộng hẹp và người tham gia nhiều ít khác nhau.
 * Các trò mang tính trí tuệ.
 
Thuộc loại trò vui này có chơi cờ và đánh bài. Nhiều làng xã Tết đến tổ chức đánh cờ thẻ, cờ người. Bàn cờ là sân đình, quân cờ do các nam thanh, nữ tú đảm nhận. Cờ thẻ, cờ người không chỉ hấp dẫn những người mê cờ, giỏi cờ mà còn thu hút hàng ngàn người trong làng, ngoài xã đến xem coi và cổ vũ, động viên. Cuộc đấu cờ người nhiều nơi kéo dài đến vài ba ngày tết. Cùng với cờ người, các bàn cờ tướng cũng làm say lòng những kỳ phùng địch thủ ở thôn quê, nhất là các cụ ông và người biết chữ Hán, chữ Nôm.
 Ít mê cờ tướng, các cụ bà, các chị tuổi ba bốn mươi thường gặp nhau để đánh bài tam cúc, và các bé gái, bé trai thì chơi trò "cá, cua, bầu, bí"... Các loại cờ, loại bài này ngày xưa chủ yếu chỉ chơi cho vui, chơi lấy may, lấy "hên", không mấy ai chơi vì tiền, vì bạc...
 * Các trò vui rèn luyện cơ bắp và sự nhanh nhạy, khéo léo.
 
Con người xưa nay vốn ham thích vận động, nhất là nam nữ thanh niên. Từ nhiều sinh hoạt lao động hàng ngày như chèo thuyền, leo núi hái củi, đánh bắt cá trên sông biển,. .v..v.. ông cha ta đã nghệ thuật hóa một số động tác lao động để xây dựng nên các trò vui tổ chức vào dịp lễ tết, hội hè nơi thôn xã. Tùy từng địa phương, từng tập quán làm ăn, sinh sống, mà các loại trò vui này được tiến hành với các nội dung, các hình thức khác nhau. Người miền núi có trò tung còn, bắn nỏ, người đồng chiêm có trò bắt lươn, bắt chạch, đuổi vịt, đánh đu, nấu cơm thi, cơm cần; người vùng sông biển có bơi chải, đua ghe; còn đấu võ đấu vật thì cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều có làng tổ chức. Ngoài ra, các trò chơi nhỏ như đập nồi niêu, leo cây chuối, ném vòng cổ chai... hầu như hội làng nào cũng thấy góp mặt. Các trò vui vừa nêu trên giúp người thi rèn luyện cơ bắp, phát huy sự nhanh nhạy, khéo léo và cả tài "thao lược" nữa. Cứ xem cái cảnh:
 Trai đu gối hạc khom khom cật
 Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
 
(Chơi đu - Hồ Xuân Hương)
 chúng ta cũng đủ thấy sự vui vẻ, đẹp đẽ, sinh động và đầy tinh thần thể thao của các trò vui dân gian ngày tết.
 * Các trò vui có liên quan đến thơ ca và hò hát
Làm thơ, đặt vè, hát ví, hát ru, ca bài chòi, ca cải lương,. .v..v.. là những sinh hoạt văn nghệ có sức
hấp dẫn lớn. Yêu thơ ca, hò hát, người Việt Nam đưa cả loại hình nghệ thuật này vào một số trò vui ngày Tết. Chơi bài chòi và thả thơ được tổ chức ở một số làng xã miền Trung và trong phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa chốn cố đô xưa là một loại trò vui thanh cao, sang trọng mà không mất đi tính dân giã của nó. Người tham gia các trò chơi này thường là người yêu thích và có tài văn chương hoặc hò hát. Một con bài, một câu thơ nêu ra làm lời đố đều được diễn xướng bằng một làn điệu dân ca, hoặc một giọng ngâm thơ trầm, bổng. Nó vừa làm thỏa mãn lòng mong muốn được nghe lời hát, tiếng thơ vừa kích thích, và vừa phát huy được tài phán đoán của người dự chơi trước những đề ra hóc búa.
 * Trò vui sử dụng các con vật, đồ vật nhằm giải trí mua vui.
 
Nhằm làm phong phú thêm các trò vui ngày đầu xuân, ông cha ta xưa đã sử dụng một số đồ vật và con vật tạo nên những hoạt động rất đặc biệt. Những trò vui này do con người đạo diễn, những con vật, đồ vật lại giữ vai trò diễn xướng.
 Lướt qua một số trò vui dân gian, chúng ta thấy chứa đựng trong nó bao điều tốt đẹp. Người tham gia các trò chơi cái chính là để tìm niềm vui, để được hòa trong cái vui chung của xóm làng, không lấy việc hơn thua và thu lợi về tiền của làm đầu. Tâm linh được thăng hoa, được giải tỏa, tinh thần được sảng khoái, trí tuệ và thân thể được dịp rèn luyện, phát huy... đã đem lại bao điều hữu ích cho những người sáng tạo và tham gia các trò chơi dân gian. Tất cả đều vì con người, phục vụ cho con người. Ấy là ý nghĩa tốt đẹp và đậm đà tính nhân văn của những trò chơi được tổ chức ở các làng xã, phố phường thuở xưa trong dịp Tết về, xuân đến.
 T.H

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BASau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở qui mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.

  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

  • LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.