Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.
Đoàn làm phim trong một buổi phỏng vấn nhân vật của “Việt Nam tim tôi”
Tình yêu hội tụ
Câu chuyện bắt đầu từ hơn 40 năm trước khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam vẫn là đề tài sôi nổi trên thế giới, hình ảnh những phụ nữ tham gia chiến đấu đã đi vào suy nghĩ của Manouchehr Abrontan. Sau khi tốt nghiệp ngành sân khấu kịch nghệ, Manouchehr bắt đầu làm phim, trong lòng ấp ủ một tình yêu thầm kín. Nhưng mãi đến năm 2015, ông mới có dịp đi đến tận cùng đam mê của mình. “Ngày thứ hai ở Đà Nẵng, tôi phải tự hỏi xem mình có nhầm lẫn gì không vì xung quanh có quá nhiều phụ nữ Việt. Họ ngồi trên những chiếc xe máy lao vun vút ngoài đường, leo cầu thang, làm cả việc khuân vác và nhiều việc khác… Hình ảnh phụ nữ năm xưa và bây giờ mang lại bất ngờ lớn. Tôi quyết định phải làm phim về họ”.
Quay trở lại Đức, Manouchehr tập hợp mọi thông tin về Việt Nam, nghe nhạc Việt 6 - 7 tiếng mỗi ngày, từ đó định hình cốt truyện cho bộ phim Việt Nam tim tôi. Đạo diễn chia sẻ, Việt Nam là đất nước có nhiều vùng văn hóa khác nhau, nhiều dân tộc sinh sống ở các địa hình khác nhau, vì vậy quan niệm về tình yêu, phong cách sống của phụ nữ ở thành phố với nông thôn, người sống ở miền xuôi với vùng núi cao cũng khác. 56 phút phim là sự hội tụ tình yêu ấy. Nhân vật chính là những phụ nữ với cuộc đời trải dài từ thời chiến đến hiện đại và những người sinh ra, lớn lên trong thời bình. Tuy hoàn cảnh sống, trải nghiệm khác nhau nhưng điểm chung là nụ cười luôn hiện diện trên môi.
Bộ phim sử dụng âm nhạc và vũ đạo như cầu nối giữa các nhân vật. Bằng cách phân ra từng câu chuyện như các chương đoạn trong một cuốn sách, các tình huống, số phận cuộc đời được mở ra. Khi hỏi về tình yêu, ban đầu họ chỉ cười như một phản ứng vô thức. Rồi ai đó sẽ lảng tránh ngượng ngùng, ai đó trả lời “ô, tình yêu là đương nhiên”, nhưng cũng có người chỉ cười - nụ cười ẩn chứa nỗi buồn mênh mang về một tình yêu lý tưởng không thành. Khi hỏi về tính nhẫn nại, chịu đựng, sẽ có người gật đầu, có người nói “không” mạnh mẽ như nhận thức ùa đến… Cả nỗi buồn, hạnh phúc cũng được biểu hiện một cách tự nhiên như thế, cả những giọt nước mắt cũng không có gì kìm nén.
Manouchehr chia sẻ, đó là cách ông làm cho bộ phim chân thực nhất, để nhân vật được là chính họ. “Trong phim có một người bị bom Napan, đạo diễn ở VTV nói rằng: Cô ấy không đẹp. Tôi bảo: Tôi không làm phim về những cô gái Việt Nam trẻ trung, xinh đẹp”. Với Manouchehr, vấn đề cần đào sâu là nội tâm, không phải hình thể. Mà tâm hồn và trái tim nhân vật chỉ có thể gợi lên bằng tình yêu chân thành.
Chân thành bộc bạch
Phim tài liệu Việt Nam tim tôi do đạo diễn Hà Lan gốc Iran Manouchehr Abrontan đạo diễn và êkip sản xuất của Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện. Bộ phim là đại diện duy nhất của VTV vào chung kết ABU Prizes 2017 (có hơn 260 tác phẩm dự thi). Những tác phẩm đoạt giải sẽ được công bố tại Gala ngày 3.11 tại Thành Đô, Trung Quốc. |
Dưới con mắt của một đạo diễn nước ngoài, bộ phim có nhiều cái nhìn thú vị, đem đến cảm nhận về sự thấu hiểu, sẻ chia và trân trọng. Manouchehr nói, ông không cho mình trở thành một nhà sản xuất quyền lực, mà đặt mình ở vị trí quan sát, đứng sau camera để đưa nhân cách mỗi người vào bộ phim. Nhờ tỉ mỉ quan sát, từng thước phim toát lên sự chân thật và gần gũi về những phụ nữ Việt Nam dịu dàng và kín đáo, chân quê và bộc trực. Bằng cách khơi gợi cảm xúc khéo kéo, Manouchehr đã khiến họ thoải mái kể câu chuyện của mình, cả những bí mật tưởng sẽ chôn giấu.
“Trong số phụ nữ Việt Nam xuất hiện trong phim, 2 người tôi biết từ trước, còn lại tôi chỉ có vài phút nói chuyện với họ trước khi quay. Cầu nối duy nhất được sử dụng là sự chân thành và mong muốn những điều chân thành. Tôi cũng học một số câu nói tiếng Việt đơn giản, để tạo dựng lòng tin, khuyến khích họ là chính mình”. Manouchehr cho rằng, đây chính là yếu tố cần thiết của một đạo diễn, cũng là mối tương cảm quan trọng trong giao tiếp giữa người với người, bất kể khoảng cách ngôn ngữ, văn hóa, địa vị, giới tính hay tuổi tác.
Với quan điểm không đánh giá mà chỉ quan sát và thể hiện, từng thước phim khắc họa rõ nét chân dung người phụ nữ mà theo Manouchehr, đó là hình ảnh đại diện của Việt Nam hiện tại, cũng nói lên mong muốn về một Việt Nam tương lai. “Cũng nhuộm tóc, mặc đồ công sở, phong cách rất Tây nhưng bên trong lại rất truyền thống. Ở phụ nữ Việt Nam, mối quan tâm giữ gìn truyền thống phần nào giữ chân họ lại nhưng họ không làm gì thay đổi nó. Vì vậy, tôi yêu và muốn lắng nghe những gì họ chia sẻ, như lời bài hát trong phim rằng, Việt Nam là vùng đất thiêng của tình yêu và bình yên…”.
Theo Hải Đường - ĐBND
Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.
Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.
“Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.
Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.
I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.
Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.