Tiếng trái tim

10:01 02/10/2008
LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

Là nhà báo, Ngô Minh nổi danh khi là cộng tác viên của tất cả các báo địa phương lẫn trung ương: Sông Hương, Tuổi trẻ, Thanh niên, Lao động, Thừa Thiên Huế,… Là nhà văn, ông đã “ẵm” khá nhiều giải thưởng, từ giải thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội, tạp chí Sông Hương… đến giải thưởng của Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam… Và, là nhà thơ, ông đã để lại cho đời những tập thơ nhỏ nhắn mang theo chút tình ấm áp rất dễ thương.

Thơ tặng là tập thơ mới nhất mà Ngô Minh gửi đến những người thân của ông, những người bạn thơ dẫu còn sống hay đã khuất đều đã có quãng thời gian “ở trọ” cùng ông trên chặng đường đời đầy gian truân, thử thách này. Tập thơ có 2 phần, Người đồng hành dành tặng cho những người bạn thơ đã nắm tay ông, cùng ông bước qua những buồn vui của cuộc sống. Và Cát vọng là ám tượng của cuộc đời ông. Nơi ấy có những tiếc thương ông kính cẩn dâng lên hương hồn ba, mẹ, những người đã cho ông biết “dung nhan” của cuộc sống, tình yêu, niềm vui và cả  nỗi khổ đau; nơi ấy có những trằn trọc, suy tư dành cho người anh trai suốt một đời lận đận; nơi ấy có những dí dỏm tặng riêng cho vợ và cũng nơi ấy, ông ôm trọn nỗi đa mang vào lòng làm “của để dành”, một thứ “chất liệu” thơ…

Nếu ai đã từng gặp Ngô Minh, nói chuyện với ông, lắng nghe ông chắc hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi đọc thơ ông. Một Ngô Minh hồn hậu với nụ cười luôn rạng rỡ trên môi; một Ngô Minh với ánh mắt lấp lánh niềm vui; một Ngô Minh “hiện đại”, nhanh nhẹn, hoạt bát, luôn ở tư thế sẵn sàng lao vào công việc. Thế mà, thơ ông lại day dứt đến lạ. Đọc hết tập thơ mới nhận ra, chính nỗi day dứt ấy đã cuốn người đọc mê mải theo từng trang viết. Nó như rượu ấy, đắng và chát nhưng lại làm say lòng người. Với ngôn ngữ đậm chất thơ, pha một chút mượt mà của thơ ca truyền thống, một chút góc cạnh của thơ đương đại, Ngô Minh trở thành người giỏi vẽ chân dung bằng thơ. Nguyễn Du, Nguyễn Tuân, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Thu Bồn, Phùng Quán… đều được ông phác hoạ bằng ngôn ngữ của riêng mình. Không cầu kỳ, khó hiểu, siêu thực, mỗi chân dung đều để lại một dấu ấn dung dị mà khó quên. Nếu chỉ vẽ chân dung bằng những hình ảnh đơn thuần thì Ngô Minh chỉ là người “thợ vẽ” dẫu bằng chất liệu mỹ miều, rạng rỡ đến nhường nào. Thế nhưng, với một tập thơ chân dung, Ngô Minh đã thổi vào đấy cả phần hồn để mỗi gương mặt đều biết cười, biết khóc theo qui luật rất thông thường của cuộc sống. Nguyễn Tuân đi vào thơ ông với một phong thái phóng khoáng, một nhân cách cao cả, cao cả cho đến tận khi bước chân vào cõi thiên thu:

“Tôi không tin là ông đã ra đi
Sáng nay mùa thu nhận bàn giao trời đất
Ông vẫn kia
Tóc cười gió ngược, mắt chớp bao lời
Ông đang nói với chúng tôi
về
MỘT CON NGƯỜI”
                        (Nhớ ông Nguyễn Tuân)
Thu Bồn lại mang gương mặt đau đáu của kẻ sống bằng thơ, thở bằng thơ, yêu bằng thơ. Và, dẫu cho cuộc sống thói thường vẫn “đùa” với khách thơ, với ông, thơ vẫn chính là bàn tay mầu nhiệm cứu rỗi linh hồn.
“Thu Bồn
Thơ - bàn tay đỡ người qua vách đá
Thơ - gương mặt mồ hôi nhễ nhại
Thơ - làn môi tím tái nụ hôn
Thơ như lửa thắt lòng chén đắng”
                                    (Nhớ Thu Bồn)       
Yêu mến Văn Cao, Ngô Minh đã để ông xuất hiện trong những trang thơ mong manh như không có thật, như một con người ôm những sương khói, những nỗi đam mê từ cõi thiên thai phiêu diêu bước xuống cõi trần. Chàng Trương Chi ngày ấy bước chân từ cõi bồng tiên nhưng vẫn không thoát khỏi nỗi sầu nhân thế để suốt đời ôm trong tim “men và lửa”:
“Ông gầy như cái vỏ chai
bảy mươi hai năm đầy vơi mắt rượu
bảy mươi hai năm không đựng lẫn thứ gì
ngoài men
và lửa”
                                    (Tưởng niệm Văn Cao)
Đọc thơ, cảm thơ đều thấy thấp thoáng đằng sau mỗi chân dung là một gương mặt Ngô Minh đăm đắm nỗi niềm, nói như nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch: “Không chỉ là sự đa cảm, đa mang mà còn là đa văn quảng kiến. Và điều đáng trân quý trước hết và sau cùng ở tập thơ vẫn là sự minh triết trong cảm hứng và sự chân thực trong biểu kiến của tác giả về các “nhân vật” qua câu chuyện của mình”.

Trong phần Người đồng hành, Ngô Minh đã “vẽ” trên 40 gương mặt văn nghệ sĩ thế kỷ XX có địa vị, đẳng cấp, thâm niên rất khác nhau. Thế nhưng, khi bước vào chiếu thơ của ông, tất cả những gương mặt ấy đều được “bình đẳng hoá”. Nếu cách nhìn của ông với các bậc tiền bối đầy kính cẩn, trân trọng thì với những người bạn đồng trang lứa lại thâm tình và đầy xúc động. Đồng cam cộng khổ, nỗi buồn chia đôi, chén rượu chia đôi, cả câu thơ cũng khiến cõi lòng ai rưng rức. Dẫu có đi qua hết cõi trần, nào có ai dễ gì quên được những gương mặt bạn bè thân thương. Và Ngô Minh thể hiện tình cảm bằng cách riêng của mình, gửi tình vào thơ. Những lời ông gửi gắm đến nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch trong bài Thơ tiễn Nguyễn Khắc Thạch lên tàu đi học trường viết văn Nguyễn Du không khỏi làm người đọc chạnh lòng khi cả bầu tâm sự cứ ngập ngừng, tắc nghẹn như những tiếc nấc không thể đọng thành lời:
“Bạn ơi bạn ơi rượu hay nước mắt
cạn túi mươi đồng cạn cốc tiễn nhau
cay đắng trong veo nồng nàn cũng trong veo
trong veo câu thơ thương người biết khóc

thôi bạn đi
túi sách vở muối mè đừng để mất
con tàu thơ không có ga dừng…!”

Với bạn bè, ông trìu mến, đồng cảm, có chút trăn trở, thao thức thì với gia đình nỗi xót xa như quặn thắt tận đáy lòng. Chỉ chiếm 7 bài trong số 53 bài thơ của toàn tập thơ nhưng Cát vọng lại khiến lòng người thổn thức. Những nỗi đau, những niềm vui rất đời thường, một khoảnh khắc ngồi soi lại bóng mình… cứ ngỡ là những điều dễ gặp giữa đời thường, thế mà Ngô Minh lại viết bằng chính sự xúc động tận đáy tim. Ký ức về người cha với cái chết thương tâm như một nỗi ám ảnh khôn nguôi, một vết thương suốt đời không thành sẹo:
“Ba ơi
từ buổi ba mang uất hận xuống mồ
con mang vết đạn xoáy tìm ba
đi tìm giặc đến ngày bạc tóc!
Buổi sáng xưa con vừa biết khóc
bao giờ khô nước mắt
bao giờ…

biển lập loè nhang sám hối
con về trắng tay
thơ làm sao cứu rỗi”
                                                (Khuya bên mộ ba)

Những kỷ niệm buồn đau của tuổi ấu thơ đã khiến ông cảm nhận được tột cùng nỗi xót xa, ngang trái của cuộc đời mẹ. Và tình yêu vô bờ bến với người mẹ đã khuất ông cũng xin gửi trọn vào thơ:
Con xin dựng tim con làm bia mộ
Tạc câu thơ đời mạ đau buồn
Trái tim nhỏ ước là quả chín
Trên cát nghèo trắng xoá thời gian
                                                (Thơ khắc trên bia mộ Mạ)

Cuối tập thơ, Ngô Minh tự vẽ chân dung mình, chân dung của một kẻ làm thơ với tấm lòng rộng mở, bao dung. Thế nhưng, ẩn sâu sau nụ cười tươi tắn, đầy ước muốn sẻ chia là một tâm hồn đầy những khúc quanh bí ẩn và luôn rợn ngợp nỗi cô đơn. Nỗi cô đơn của một con người luôn cảm thấy mình lẻ loi giữa cuộc sống đời thường nhốn nháo, tất bật:
Ta trốn vào đâu phố phường đông đúc
Ta là đêm ẩm ướt mơ hồ
                                                            (Tự họa)

Thơ tặng
, tập xinh xắn do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành sẽ mang đến cho độc giả những nhân cách thơ cao cả, những câu chuyện bằng thơ đầy xúc động. Đến với Thơ tặng, có lẽ, độc giả sẽ phần nào tìm thấy chính mình với những góc khuất mà ắt hẳn chưa ai phát hiện ra, chưa ai nhìn thấy…
L.H
(nguồn: TCSH số 224 - 10 - 2007)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • “Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? ​Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.

  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

  • ĐẶNG HUY GIANG

    Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.

  • Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

  • BÍCH THU
    (Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

    Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.