Thương nhớ Vu Lan

16:07 23/12/2008
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.

Tháng 7 quê tôi nhộn những người, những xe ô tô láng coóng chạy vù vù vào làng để lên chùa lễ phật, tịnh an. Mẹ tôi vẫn quang gánh xuống chợ, bán dăm ba bó rau, mớ chanh, vài nải chuối cau ngọt lựng, xế trưa mới tong tả ngược nắng về nhà. Mồ hôi đổ lã bã xuống hai gò má gầy và vầng trán đầy những vết nhăn. Tôi lùa đàn bò về trong sân uống nước giếng rồi cột chúng vào dưới mấy gốc tre, chúng nằm nhơi nhơi cỏ, ngủ gật. Tôi chạy vào với mẹ, tìm trong thúng mủng của mẹ những quà bánh bán lẻ ở chợ quê, ăn ngúng nguẩy rồi cười toe cái miệng có mấy chiếc răng sún. Trông ngộ lắm. Khi ấy, tôi không có quà Vu Lan tặng mẹ!

Quê tôi không có ngày lễ Vu Lan mà người dân quen gọi là ngày rằm tháng bảy. “Cả năm được rằm tháng bảy, cả thảy được rằm tháng giêng” - Câu tục ngữ ấy đã theo tôi lớn lên với tuổi thơ tóc vàng hoe vì nắng và gió Lào trên miền quê nghèo xứ Nghệ. Với những củ sắn củ khoai mà trước những năm 1986, cha tôi nhường cho chị em tôi phần cơm ít ỏi trong một nồi cơm trộn sắn. Với những vại dưa mẹ tôi muối mặn để đến mùa đông lấy ra kho với chút nước mắm, chút mỡ heo và... làm thức ăn chính cho một ngày. Tôi nhớ mãi mùi tép khô kho khế của mẹ sau mỗi buổi chợ chiều vãn khách, mẹ tôi mua tép khô của những người miền biển. Nhà tôi có hai cây khế sai quả, mỗi lần đi chợ, mẹ thường hái mang theo một giỏ, vậy là bữa ấy cả nhà có tép trộn khế, ăn cơm không ngán. Tôi và cha tôi cũng thường đi soi cá trên con sông nhỏ trước nhà. Chiếc đèn soi cá được cha tôi thiết kế từ mấy chiếc lốp xe cũ xin bà con trong xóm. Tôi nhớ như in cái mùi khen khét của chất cao su, cha tôi cầm giơ lên thật cao, rồi, một con cá, ông lấy nơm và thế là tôi lại lon ton chạy tới, bắt cá cho vào túi. Có hôm, cha nơm luôn một con rắn nước, tôi hú hồn, bám mãi cánh tay của cha cho đến lúc về đến nhà.

...Và cũng từ sau luỹ tre làng mộc mạc ấy đã hình thành nên tôi với một chút duyên nhỏ nhoi trong nghề cầm bút. Tôi vẫn thường có những giấc mơ về tuổi thơ với những ngày tháng bình yên bên mẹ, những ngày tháng mà tôi đã được đúc kết thành hình hài, tuổi thơ và những giấc trưa hối hả. Những cánh diều được thả lên bay cao trên những ngọn tre và đứt dây rơi vào bãi cát rộng, tôi và mấy đứa bạn trong làng chạy vòng quanh bãi sậy rộng và tốt ngun ngút, dành nhau lấy diều. Mẹ tôi từ trong ngõ hoa dâm bụt đỏ đi ra với một rổ khoai lang luộc thơm lừng, cả lũ kéo đến, dành nhau ăn chí choé... Những trang đời tuổi thơ của tôi cứ trải về trong thực tại như thế mỗi khi nhớ mẹ. Tôi lớn lên, vào đại học rồi ra trường và đi làm ở một thành phố lớn, bỏ lại mẹ tôi với những buổi chiều hun khói bếp một mình. Cha tôi là một thợ mộc giỏi nhất trong làng, ông là thợ bậc 7, rất rành nghề và đam mê trong từng nét chạm trổ. Ông thường xuyên làm những chiếc tủ bích phê bằng gỗ gọ, gỗ dổi cho bà con trong xóm. Mẹ tôi thường phụ giúp ông mỗi khi hàng nhiều, cả nhà bắt tay vào đánh giấy nhám và vécni, màu sơn lên đẹp mê hồn. Cha tôi thường dùng tay miết miết những chỗ chạm khắc hoa văn, gật đầu bằng lòng lắm. 

 
Tôi không phải là một nhà điêu khắc để hiểu hết những tình cảm mà cha tôi đã đổ dồn vào từng nếp gỗ, nhưng tôi biết cả cuộc đời của ông, nghề mộc đã là cái nghiệp. Mà đã là cái nghiệp thì nó ăn sâu vào máu thịt! Ông không bao giờ nhận làm những mặt hàng mà mình không rành, vì ông nói với tôi rằng, đã không làm thì thôi, làm thì cho ra tác phẩm để đời. Chính từ câu nói ấy của cha tôi mà khi tôi cầm bút viết một điều gì đó, tôi thường trăn trở. Cũng như hôm nay, khi ở phố người ta đi mua quà tặng mẹ rất nhiều với bạt ngàn quà tặng, tôi chợt nhói lòng khi nghĩ đến mẹ tôi. Trong cuộc đời mình, bà chưa bao giờ mặc một bộ quần áo đẹp, mua một chiếc nón mới hay những thứ gì đó mới cần trong cuộc sống. Bà chắt chiu từng cắc, từng đồng để lo cho chồng, cho con. Cả mấy chị em chúng tôi đều được ăn học đàng hoàng, được diện những bộ quần áo mới sánh vai với bạn bè. Người xứ Nghệ thuỷ chung. Mẹ tôi là mẫu người phụ nữ lý tưởng ấy trong tôi. Nhiều khi tôi trộm nghĩ về số phận của những người phụ nữ, đằng sau lũy tre làng, lòng người đôi lúc cũng đổi thay. Nhưng mẹ tôi trong suốt cuộc đời làm dâu nhà nội, chưa bao giờ chịu lời ong tiếng ve vì chuyện trai gái trong làng. Mặc cho khi bà nội tôi còn sống, bà cũng có đôi lần trách khéo cha tôi “kiếm một thằng con trai để sau này nó thờ cúng...”


Lễ Vu Lan - Lễ báo hiếu cha mẹ, hãy tặng cho những ai đang còn mẹ một bông hồng đỏ và hãy cài lên áo của những ai mất mẹ một bông hồng trắng. Gió thảng khóc bên trời. Khi những khoảng không gian sống trong cuộc đời mỗi người không chật hẹp, hiển nhiên hạnh phúc hay khổ đau của mỗi người khác nhau, nhưng bao giờ cũng có những sai lệch. Vòng xoay của thời gian luôn luôn hiện hữu trong mỗi cuộc đời. Trong trái tim tôi, những kỷ niệm về mẹ cứ sống dậy cồn cào mỗi khi ai đó thoáng nhắc đến Vu Lan. Cuộc sống hiện đại đưa người ta đi đến nhiều nơi nhưng nơi sâu nhất trong mỗi cuộc đời vẫn là lòng mẹ. Bao dung và thứ tha là một trong những đức tính tuyệt vời nhất của mẹ. Đó là cội nguồn mà khi lớn lên, trưởng thành rồi về với đất, người ta vẫn không quên được công lao sinh thành của mẹ. Và hơn thế, có ai đó trong cuộc đời này đang hạnh phúc khi có mẹ thì hãy biết nâng niu. Để cho mẹ không phải là chiếc lá vàng mà mãi là một chiếc lá xanh - Sống mãi trên CÂY CUỘC ĐỜI với bao nhiêu đổi thay nhân thế.
Vu Lan, 2006
N.T.A.Đ

(nguồn: TCSH số 210 - 08 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀHầu như mỗi chúng ta chỉ biết Mai Xuân Hòa là nhạc sĩ. Anh đã ra mắt hai tập nhạc viết cho người lớn: "Nỗi đợi chờ", "Khát vọng",và hai tập cho thiếu nhi: " Những điều em thích", " Những ngôi sao đẹp".

  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.