MINH HUỆ
Trong đầm gì đẹp bằng sen...
Ảnh: tư liệu
Cái chất sen đạo lý cổ truyền thanh cao ấy đã được tái hiện vào thơ Việt Nam hiện đại viết về Bác Hồ, với những sắc thái kế thừa và phát triển thật phong phú và thú vị. Nó nói lên một sáng tạo độc đáo, đậm đà ý vị dân tộc của tiến trình văn chương tạo dựng hình tượng Hồ Chí Minh. Người có công mở đầu, cũng như công phu đeo đuổi việc vận dụng yếu tố thẩm mỹ sen khá thành công, là Bảo Định Giang:
Tháp Mười đẹp nhứt bông sen
Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ
Hoàng Trung Thông cũng đi vào cái môi trường "đẹp nhất" đó, để nói lên bản chất một thế giới tâm hồn vĩnh hằng cao quý, thân thuộc.
Hồ Chí Minh, tên người mãi mãi
Thơm như hương ngát hoa sen
Trong khi luận về quan hệ giữa Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam ta, Phạm Văn Đồng cũng viết "Trước hết tôi nhắc lại một câu ca dao... Câu ca dao này nói lên tình cảm của đồng bào miền Nam, đồng thời nó thể hiện tình cảm của đồng bào cả nước. Bông sen lại nhắc tới làng Sen - quê hương của Bác -, bông sen là biểu tượng của sự trong sáng, của sự cao quý, của cái “đẹp” (Bài "Sự kiện lịch sử sáng chói" - báo Sài Gòn giải phóng, ngày 2/9,/1992). Vậy nên, làng Sen - ý bao hàm cả làng Trùa, quê ngoại - "một quê chung của muôn nơi" (Xuân Hoài) đủ sống động trong thơ với tư cách là cội nguồn của "hương ngát hoa sen" như lời văn chính luận suy tư. "Sự sống này, cuộc đấu tranh này vốn có tự làng Sen", mà Chế Lan Viên đã chuyển hóa thành giọng thơ trữ tình, thiêng liêng và gần gũi:
Người gởi lại một niềm tin
Còn như Người... Người đã hóa hương sen
đến tâm huyết ân tình
Người đã lớn lên theo nhịp võng đưa
và thoi dệt cần cù
Vì ta hoa sen ấy chịu bao mưa gió
Vâng, cái sự "hóa hương sen" ấy, cái sự "hoa sen chịu bao mưa gió" ấy, đã nẩy mầm từ đất Kim Liên "cát sỏi vẫn sinh sôi hạt giống" tắm mình trong một không khí hòa quyện trìu mến, phong phú chất văn hoá dân dã, như lời Võ Văn Trực:
Một đầm sen bát ngát
Nở ngàn đóa ca dao
Đã vút thành đỉnh cao
Tiếng ru hời quê mẹ
Với chất đạo lý nhân phẩm thâm nho:
Hương thơm, phảng phất đầy xóm nhỏ
Thanh bạch trắng trong tự bao giờ
(Hoàng Xuân Khởi)
và dạt dào một sức sống truyền thống mãi mãi thanh xuân.
Hồn quê muôn dặm trăm năm ấy
Từ ''búp sen xanh" nở thắm tươi
(Văn Chi)
một ánh sáng tâm hồn rạo rực
Đồng làng đẹp bức tranh sơn mài rực rỡ
Sen tươi hồng soi đuốc giữa hồ thiêng
(Quốc Tuý)
Sen ấy thu hút một tấm lòng chiêm ngưỡng hết mực trân trọng và tinh tế
Quý mến sen trong từng cánh nhỏ
Người đến thăm không đi nặng bàn chân
(Phan Hồng Khánh)
"Không đi nặng bàn chân", như cảm nhận của Hoàng Vũ Thuật, chỉ một thoáng hương sen cũng đủ gợi trong ta tâm tưởng quyến luyến bâng khuâng, hồn hậu về giây phút gặp Bác ở làng quê:
Con ngồi ngóng bác ngoài hiên nắng
Thoảng gió đầm sen thổi cuối vườn
Giữa những tiếng thơ lắng sâu, trầm tĩnh ấy, có khi bỗng bật lên một giọng liên tưởng bất ngờ ngộ nghĩnh, thú vị trong cách biến hóa của Bùi Sỹ Hoa:
Dưới mái nhà Bác
Em cứ hát và em là nốt nhạc
Những bông Sen ngước nhìn như những nốt hòa âm
Ở đây, sen là hình ảnh lớp cháu chắt quê nhà, đang ngẩng đầu tự hào về mảnh đất quê hương của nguồn sữa dân ca đã từng nuôi dưỡng tuổi thơ của người ông, người cố vô vàn kính yêu; quê hương tỏa truyền một sinh khí hào hùng trẻ trung:
Như có hương sen tỏa lối về
Lòng ta thơm ngát đượm tình quê
Ai ai hăm hở ra tiền tuyến
Cho nhập vô đoàn xe nối xe
(Xuân Thủy)
và cũng là chốn hội tụ muôn vàn tình hữu nghị quốc tế:
Xin dâng Người bông sen hồng đầu hạ
Nơi ao làng soi bóng bạn năm châu
(Xuân Hoài)
Và trong dòng thơ "Viết từ làng Sen" thì "Sen quê Bác" của Trần Hữu Thung, dẫu khuôn vào thể thơ bảy tiếng cổ kính, và điệp đến chín lần tiếng "sen" trong hai mươi câu toàn bài, nhưng vẫn thanh thoáng một âm điệu dân gian hiện đại, như lời bình tinh tế của Bùi Nguyễn "Khung cảnh bài thơ là sự hòa hợp giữa ngôn ngữ, hình ảnh với cảm xúc, tạo nên sự thống nhất bên trong, gây cho người đọc cái dịu dàng ngọt ngào, ríu ran mát mẻ...
Bài thơ như bức tranh lụa về sen quê Bác, không có hình ảnh Bác mà cái đọng lại sâu sắc trong lòng người đọc lại là Bác Hồ".
... Có sen, ao bỗng hóa thành gương
Ríu ran đàn cháu quanh soi bóng
Hương trẻ, hương sen quyện mến thương
... Nắng hè sao lắm bâng khuâng nhớ
Bát ngát đất trời, bát ngát xuân
Giữa mùa sen nở là mùa xứ Nghệ hừng hực nắng lửa, gió nóng mà dám viết "bát ngát xuân" thì cảm hứng ấy quả là phóng khoáng, mãnh liệt một niềm tin yêu. Một niềm tin như một di sản vô giá, làm sáng dậy, nâng lên giá trị nhân văn:
Bác Hồ nghỉ yên như bức tranh sen
Nét bút Việt Nam trìu mến vẽ nên
Chiêm ngưỡng Bác Hồ tinh hoa lý tưởng
Ta thấy hồn ta càng thêm trong sáng
(Minh Huệ)
Niềm tin mà từ chiến trường miền Nam khốc liệt, Hường Triều da diết gởi gắm ra Ba Đình:
Một tờ di chúc sen tỏa ngát
Bác sẽ vào đây, Bác vẫn còn
Bác vẫn còn! Một chứng nhận của lòng dân. Một chứng nhận của lịch sử! Một thi hứng "Bỗng nghe vần thẳng vút lên cao" từ ngôi nhà sàn "lộng gió thời đại", quây quần, ríu rít:
Tin báo tiệp về ở giữa trang thơ
Da Bác đỏ hồng tóc Bác bạc phơ
Kìa, Bác đang bước xuống nhà sàn từng bước gấp
Hoa sen trắng, hoa sen hồng nở bừng theo mỗi bước
Bác đi giữa cháu con sông núi đang chờ
Rồi Bác "chia đều" sen tỏa ngát "Thơm vào bốn mươi lăm triệu hồn người hương của tự do".
Cái tứ thơ chứa chan cảm hứng lãng mạn mênh mang, bồi hồi trên đây của Chế Lan Viên cũng là nơi gặp gỡ của những tác giả khác, giữa thời điểm "Mùa Sen Lớn", hình ảnh tượng trưng của đại thắng mùa Xuân 1975, của đại khải hoàn nước Việt Nam.
Hội mừng tỏa ngát hương sen,
Thấm trong suy tưởng là tên của Người.
(Trần Văn Khoan)
của giang sơn thu về một mối huy hoàng, đúng như lời Di chúc tiên tri của Hồ Chí Minh.
Rừng hồng nở suốt nước non,
Một mùa sen đẹp tô son tên Người.
(Bùi Hạnh Cẩn)
Nguyễn Trọng Tạo còn mở rộng tứ thơ ấy hòa vào không khí chia vui của nhân dân thế giới.
Ta chào Bác giữa trái tim Tổ Quốc.
Lại trở về xóm nhỏ Bác sinh ra,
Một vầng sen chia hương khắp mọi nhà
Hương của tự do bay cùng trái đất.
Hình ảnh "Vầng Sen" quả là giàu đẹp và mới lạ (Phải chăng nó có thể gợi nhớ vầng trăng của thơ Hồ Chí Minh). Nó gợi cảm giác Sen - Bác Hồ không chỉ tỏa ngát, mà còn tỏa sáng, khiến cho mọi người bước trên con đường Hồ Chí Minh, cũng "Xòe thành triệu đóa hoa sen". Ý thơ lung linh, nhuần nhụy này của Duy Khán cũng trùng hợp với sự phát hiện sắc sảo của Chế Lan Viên "Ta thấy Người là Sen, nhưng Người cũng làm cho ta tự thấy ta có mầm - mống - sen, có khả - năng - sen". Hay như Bằng Việt đã khái quát cái chất sen nhân bản ấy trong sự nghiệp trồng người gắn với dân tộc và thời đại.
Ta là mầm sen ủ bốn nghìn năm,
Bác vun nở cùng anh em quốc tế.
Ta, là các thế hệ người Việt Nam trong tiến trình kháng chiến cứu nước và dựng nước, giữ nước hôm nay; cũng là mỗi cá thể công dân: "Hiếu trung con cháu Bác Hồ. Nguyện đưa tới đích ngọn cờ Bác trao" (Bảo Định Giang) bằng hành động dựng xây như lời thơ nguyện ước của Trần Lê Xuân.
Chúng con về xin dựng lại miền quê
Cho thêm đẹp, thêm thơm cánh sen Đồng Tháp
Cho Cửu Long tỏa chín nhánh êm đềm
Và Lê Hà, lại còn đưa cánh sen Đồng Tháp thân thương ấy vào một bức tranh tâm tưởng cảm động và hồn nhiên kỳ diệu.
Giữa nông trường Đồng Tháp bạt ngàn xanh
Kết sen trắng, chúng con reo Bác đến...
Áo Bác Hồ hòa với lúa Tháp Mười
Trên áo Bác, sen kết vòng trắng muốt.
Đẹp tuyệt! Cái đẹp của hội họa trữ tình sống động. Và có cả cái đẹp của tư duy triết lí qua một giọng thơ mới mẻ của Xuân Hoàng:
Trong hồ búp sen đã trổ...
Tháng Năm về rồi đó
Chưa qua những ngày Điện Biên
Đã đến dịp mừng sinh nhật Bác
Những cột mốc hồng chốt lại, tự thiên nhiên...
Và Bác hẳn mỉm cười vẫy gọi
''Hãy vững vàng theo qui luật mà đi"
Qui luật thiên nhiên, phải chăng cũng là qui luật ánh sáng Hồ Chí Minh, con đường Hồ Chí Minh, mà điều thú vị là chính qui luật Sen ấy cũng hấp dẫn nhiều nhà thơ nước ngoài khi họ viết về Bác Hồ. Chẳng hạn lời ca ngợi từ lâu của Buntaga, nhà thơ Mông Cổ.
Sắc đẹp hoa sen cùng với nhân dân.
Càng tươi thắm qua trăm ngàn thế hệ
Ta thấy từ sau ngày Bác đi vào "Thế giới người hiền", qua sự kiện vĩ đại giải phóng miền Nam, cho đến thời "đổi mới" hôm nay, yếu tố thẩm mĩ Sen - Bác Hồ ngày càng được nhân lên đa dạng, đa nghĩa, lắm hình, nhiều vẻ bằng những cách thể hiện phong phú, đầy tâm huyết. Mà lạ thay, có những sự trùng hợp ngẫu nhiên, mà cứ ngỡ như là theo bàn tay sắp xếp rất khéo của lịch sử. Ấy là "Mùa Sen Lớn" dân tộc bừng nở cùng thời điểm với mùa sen thiên nhiên, và nhà chiến lược thiên tài khởi xướng, tổng chỉ huy cuộc trường kỳ hành trình "Không có gì quí hơn Độc Lập, Tự Do", lại ra đời đúng lúc “Sen vừa trổ bông, cánh nhụy còn phong” tại một vùng quê, đẹp thay, cũng mang tên Kim Liên (Sen Vàng). Chính nhóm trùng hợp lịch sử, trùng hợp đời với sen đó, đã tạo thêm cho thơ một môi trường trữ tình rất thuận để khởi lên những cảm hứng dồi dào, những ý thơ đắc địa về Bác Hồ. Có cả một nguồn khai thác đến tận cùng từng chi tiết xoay quanh Sen. Thật tình tôi không khỏi ngạc nhiên một cách thú vị khi kể lại như thế này: Bông sen, hoa sen, búp sen, đóa sen, sen hồng, sen trắng, sen vàng, nhị sen, cánh sen, hương sen; đồng sen, đầm sen, ao sen, mùa sen, cho đến tranh sen, vầng sen, gió sen, mầm sen; và cả mầm - mống - sen, khả - năng - sen, sen loài người; rồi lại còn sen nở rộ, sen nở bừng, sen trổ bông, sen tỏa ngát, sen kết, sen soi đuốc, sen ngẩng nhìn, sen cột mốc hồng... Mà hầu như tất cả đều mang tính tượng trưng, tính ẩn dụ, tính biểu tượng và nhân cách hóa.
Tuy nhiên cũng có bài thơ không hề có tiếng "Sen" tiếng Bác, ấy thế nhưng qua giọng điệu, tâm huyết suy tư thế thái nhân tình gắn với danh tích Bến Nhà Rồng, với "một ngày đẹp nhất" (Ngày 19/5/1989), thì ta vẫn cảm thấy một ngọn gió đang thổi mùi hương đạo lý Sen - Cụ Hồ thấm đậm lòng ta, thậm chí có thể xốn xang gan ruột ta.
Bến xưa từng đợt sóng lành.
Một ngày đẹp nhất cho mình hôm nay.
Năm năm ta lại bến này.
Ngồi nghe sóng vỗ để suy nhân tình.
... Để xem trong cuộc phong trần.
Tâm linh có giữ được phần thanh cao?
... Để xem danh lợi trong vòng
Có còn giữ được trắng trong thuở nào?
Để xem khi bước lên lầu
Có còn nhớ thuở bên nhau mái nghèo?
Trong bài "Hương sen Tháp Mười" (Tháng 5 - 1991), Trần Thanh Đạm đã bình bài thơ "Năm năm ta lại bến này" của Bảo Định Giang, như sau "Ta thấy anh ngồi trầm tư nơi bến nước ngày xưa Bác đã ra đi, để nghe lòng tự hỏi lòng... Câu trả lời của nhà thơ hẳn nhiên là khẳng định. Mong mọi người đọc thơ anh cũng có câu trả lời như anh. Người già hay nói đạo lí, làm thơ đạo lí. Đôi khi bị người trẻ cười. Song cũng bất hạnh cho ai phải đợi đến tuổi già mới nghe, mới hiểu những điều đạo lí, khi đã quá muộn... Có những câu thơ của các nhà thơ đã giúp cho con người sống tốt cuộc đời mình, trong đó có những câu thơ của Bảo Định Giang. Thật vậy:
Tháp Mười sen nở bao mùa trước
Vẫn nở cho ai giữa Tết này
Một đóa sen đồng - lòng kính cẩn
Dâng Người - Xin gửi áng mây bay
Sen Kim Liên... Sen Tháp Mười... Sen nước Nam.
Sen của con người đẹp nhất đất nước vua Hùng, con người văn hóa nhân loại. Sen vĩnh hằng.
M.H
1990 - 1993
(TCSH55/05&6-1993)
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.