MINH HUỆ
Trong đầm gì đẹp bằng sen...
Ảnh: tư liệu
Cái chất sen đạo lý cổ truyền thanh cao ấy đã được tái hiện vào thơ Việt Nam hiện đại viết về Bác Hồ, với những sắc thái kế thừa và phát triển thật phong phú và thú vị. Nó nói lên một sáng tạo độc đáo, đậm đà ý vị dân tộc của tiến trình văn chương tạo dựng hình tượng Hồ Chí Minh. Người có công mở đầu, cũng như công phu đeo đuổi việc vận dụng yếu tố thẩm mỹ sen khá thành công, là Bảo Định Giang:
Tháp Mười đẹp nhứt bông sen
Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ
Hoàng Trung Thông cũng đi vào cái môi trường "đẹp nhất" đó, để nói lên bản chất một thế giới tâm hồn vĩnh hằng cao quý, thân thuộc.
Hồ Chí Minh, tên người mãi mãi
Thơm như hương ngát hoa sen
Trong khi luận về quan hệ giữa Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam ta, Phạm Văn Đồng cũng viết "Trước hết tôi nhắc lại một câu ca dao... Câu ca dao này nói lên tình cảm của đồng bào miền Nam, đồng thời nó thể hiện tình cảm của đồng bào cả nước. Bông sen lại nhắc tới làng Sen - quê hương của Bác -, bông sen là biểu tượng của sự trong sáng, của sự cao quý, của cái “đẹp” (Bài "Sự kiện lịch sử sáng chói" - báo Sài Gòn giải phóng, ngày 2/9,/1992). Vậy nên, làng Sen - ý bao hàm cả làng Trùa, quê ngoại - "một quê chung của muôn nơi" (Xuân Hoài) đủ sống động trong thơ với tư cách là cội nguồn của "hương ngát hoa sen" như lời văn chính luận suy tư. "Sự sống này, cuộc đấu tranh này vốn có tự làng Sen", mà Chế Lan Viên đã chuyển hóa thành giọng thơ trữ tình, thiêng liêng và gần gũi:
Người gởi lại một niềm tin
Còn như Người... Người đã hóa hương sen
đến tâm huyết ân tình
Người đã lớn lên theo nhịp võng đưa
và thoi dệt cần cù
Vì ta hoa sen ấy chịu bao mưa gió
Vâng, cái sự "hóa hương sen" ấy, cái sự "hoa sen chịu bao mưa gió" ấy, đã nẩy mầm từ đất Kim Liên "cát sỏi vẫn sinh sôi hạt giống" tắm mình trong một không khí hòa quyện trìu mến, phong phú chất văn hoá dân dã, như lời Võ Văn Trực:
Một đầm sen bát ngát
Nở ngàn đóa ca dao
Đã vút thành đỉnh cao
Tiếng ru hời quê mẹ
Với chất đạo lý nhân phẩm thâm nho:
Hương thơm, phảng phất đầy xóm nhỏ
Thanh bạch trắng trong tự bao giờ
(Hoàng Xuân Khởi)
và dạt dào một sức sống truyền thống mãi mãi thanh xuân.
Hồn quê muôn dặm trăm năm ấy
Từ ''búp sen xanh" nở thắm tươi
(Văn Chi)
một ánh sáng tâm hồn rạo rực
Đồng làng đẹp bức tranh sơn mài rực rỡ
Sen tươi hồng soi đuốc giữa hồ thiêng
(Quốc Tuý)
Sen ấy thu hút một tấm lòng chiêm ngưỡng hết mực trân trọng và tinh tế
Quý mến sen trong từng cánh nhỏ
Người đến thăm không đi nặng bàn chân
(Phan Hồng Khánh)
"Không đi nặng bàn chân", như cảm nhận của Hoàng Vũ Thuật, chỉ một thoáng hương sen cũng đủ gợi trong ta tâm tưởng quyến luyến bâng khuâng, hồn hậu về giây phút gặp Bác ở làng quê:
Con ngồi ngóng bác ngoài hiên nắng
Thoảng gió đầm sen thổi cuối vườn
Giữa những tiếng thơ lắng sâu, trầm tĩnh ấy, có khi bỗng bật lên một giọng liên tưởng bất ngờ ngộ nghĩnh, thú vị trong cách biến hóa của Bùi Sỹ Hoa:
Dưới mái nhà Bác
Em cứ hát và em là nốt nhạc
Những bông Sen ngước nhìn như những nốt hòa âm
Ở đây, sen là hình ảnh lớp cháu chắt quê nhà, đang ngẩng đầu tự hào về mảnh đất quê hương của nguồn sữa dân ca đã từng nuôi dưỡng tuổi thơ của người ông, người cố vô vàn kính yêu; quê hương tỏa truyền một sinh khí hào hùng trẻ trung:
Như có hương sen tỏa lối về
Lòng ta thơm ngát đượm tình quê
Ai ai hăm hở ra tiền tuyến
Cho nhập vô đoàn xe nối xe
(Xuân Thủy)
và cũng là chốn hội tụ muôn vàn tình hữu nghị quốc tế:
Xin dâng Người bông sen hồng đầu hạ
Nơi ao làng soi bóng bạn năm châu
(Xuân Hoài)
Và trong dòng thơ "Viết từ làng Sen" thì "Sen quê Bác" của Trần Hữu Thung, dẫu khuôn vào thể thơ bảy tiếng cổ kính, và điệp đến chín lần tiếng "sen" trong hai mươi câu toàn bài, nhưng vẫn thanh thoáng một âm điệu dân gian hiện đại, như lời bình tinh tế của Bùi Nguyễn "Khung cảnh bài thơ là sự hòa hợp giữa ngôn ngữ, hình ảnh với cảm xúc, tạo nên sự thống nhất bên trong, gây cho người đọc cái dịu dàng ngọt ngào, ríu ran mát mẻ...
Bài thơ như bức tranh lụa về sen quê Bác, không có hình ảnh Bác mà cái đọng lại sâu sắc trong lòng người đọc lại là Bác Hồ".
... Có sen, ao bỗng hóa thành gương
Ríu ran đàn cháu quanh soi bóng
Hương trẻ, hương sen quyện mến thương
... Nắng hè sao lắm bâng khuâng nhớ
Bát ngát đất trời, bát ngát xuân
Giữa mùa sen nở là mùa xứ Nghệ hừng hực nắng lửa, gió nóng mà dám viết "bát ngát xuân" thì cảm hứng ấy quả là phóng khoáng, mãnh liệt một niềm tin yêu. Một niềm tin như một di sản vô giá, làm sáng dậy, nâng lên giá trị nhân văn:
Bác Hồ nghỉ yên như bức tranh sen
Nét bút Việt Nam trìu mến vẽ nên
Chiêm ngưỡng Bác Hồ tinh hoa lý tưởng
Ta thấy hồn ta càng thêm trong sáng
(Minh Huệ)
Niềm tin mà từ chiến trường miền Nam khốc liệt, Hường Triều da diết gởi gắm ra Ba Đình:
Một tờ di chúc sen tỏa ngát
Bác sẽ vào đây, Bác vẫn còn
Bác vẫn còn! Một chứng nhận của lòng dân. Một chứng nhận của lịch sử! Một thi hứng "Bỗng nghe vần thẳng vút lên cao" từ ngôi nhà sàn "lộng gió thời đại", quây quần, ríu rít:
Tin báo tiệp về ở giữa trang thơ
Da Bác đỏ hồng tóc Bác bạc phơ
Kìa, Bác đang bước xuống nhà sàn từng bước gấp
Hoa sen trắng, hoa sen hồng nở bừng theo mỗi bước
Bác đi giữa cháu con sông núi đang chờ
Rồi Bác "chia đều" sen tỏa ngát "Thơm vào bốn mươi lăm triệu hồn người hương của tự do".
Cái tứ thơ chứa chan cảm hứng lãng mạn mênh mang, bồi hồi trên đây của Chế Lan Viên cũng là nơi gặp gỡ của những tác giả khác, giữa thời điểm "Mùa Sen Lớn", hình ảnh tượng trưng của đại thắng mùa Xuân 1975, của đại khải hoàn nước Việt Nam.
Hội mừng tỏa ngát hương sen,
Thấm trong suy tưởng là tên của Người.
(Trần Văn Khoan)
của giang sơn thu về một mối huy hoàng, đúng như lời Di chúc tiên tri của Hồ Chí Minh.
Rừng hồng nở suốt nước non,
Một mùa sen đẹp tô son tên Người.
(Bùi Hạnh Cẩn)
Nguyễn Trọng Tạo còn mở rộng tứ thơ ấy hòa vào không khí chia vui của nhân dân thế giới.
Ta chào Bác giữa trái tim Tổ Quốc.
Lại trở về xóm nhỏ Bác sinh ra,
Một vầng sen chia hương khắp mọi nhà
Hương của tự do bay cùng trái đất.
Hình ảnh "Vầng Sen" quả là giàu đẹp và mới lạ (Phải chăng nó có thể gợi nhớ vầng trăng của thơ Hồ Chí Minh). Nó gợi cảm giác Sen - Bác Hồ không chỉ tỏa ngát, mà còn tỏa sáng, khiến cho mọi người bước trên con đường Hồ Chí Minh, cũng "Xòe thành triệu đóa hoa sen". Ý thơ lung linh, nhuần nhụy này của Duy Khán cũng trùng hợp với sự phát hiện sắc sảo của Chế Lan Viên "Ta thấy Người là Sen, nhưng Người cũng làm cho ta tự thấy ta có mầm - mống - sen, có khả - năng - sen". Hay như Bằng Việt đã khái quát cái chất sen nhân bản ấy trong sự nghiệp trồng người gắn với dân tộc và thời đại.
Ta là mầm sen ủ bốn nghìn năm,
Bác vun nở cùng anh em quốc tế.
Ta, là các thế hệ người Việt Nam trong tiến trình kháng chiến cứu nước và dựng nước, giữ nước hôm nay; cũng là mỗi cá thể công dân: "Hiếu trung con cháu Bác Hồ. Nguyện đưa tới đích ngọn cờ Bác trao" (Bảo Định Giang) bằng hành động dựng xây như lời thơ nguyện ước của Trần Lê Xuân.
Chúng con về xin dựng lại miền quê
Cho thêm đẹp, thêm thơm cánh sen Đồng Tháp
Cho Cửu Long tỏa chín nhánh êm đềm
Và Lê Hà, lại còn đưa cánh sen Đồng Tháp thân thương ấy vào một bức tranh tâm tưởng cảm động và hồn nhiên kỳ diệu.
Giữa nông trường Đồng Tháp bạt ngàn xanh
Kết sen trắng, chúng con reo Bác đến...
Áo Bác Hồ hòa với lúa Tháp Mười
Trên áo Bác, sen kết vòng trắng muốt.
Đẹp tuyệt! Cái đẹp của hội họa trữ tình sống động. Và có cả cái đẹp của tư duy triết lí qua một giọng thơ mới mẻ của Xuân Hoàng:
Trong hồ búp sen đã trổ...
Tháng Năm về rồi đó
Chưa qua những ngày Điện Biên
Đã đến dịp mừng sinh nhật Bác
Những cột mốc hồng chốt lại, tự thiên nhiên...
Và Bác hẳn mỉm cười vẫy gọi
''Hãy vững vàng theo qui luật mà đi"
Qui luật thiên nhiên, phải chăng cũng là qui luật ánh sáng Hồ Chí Minh, con đường Hồ Chí Minh, mà điều thú vị là chính qui luật Sen ấy cũng hấp dẫn nhiều nhà thơ nước ngoài khi họ viết về Bác Hồ. Chẳng hạn lời ca ngợi từ lâu của Buntaga, nhà thơ Mông Cổ.
Sắc đẹp hoa sen cùng với nhân dân.
Càng tươi thắm qua trăm ngàn thế hệ
Ta thấy từ sau ngày Bác đi vào "Thế giới người hiền", qua sự kiện vĩ đại giải phóng miền Nam, cho đến thời "đổi mới" hôm nay, yếu tố thẩm mĩ Sen - Bác Hồ ngày càng được nhân lên đa dạng, đa nghĩa, lắm hình, nhiều vẻ bằng những cách thể hiện phong phú, đầy tâm huyết. Mà lạ thay, có những sự trùng hợp ngẫu nhiên, mà cứ ngỡ như là theo bàn tay sắp xếp rất khéo của lịch sử. Ấy là "Mùa Sen Lớn" dân tộc bừng nở cùng thời điểm với mùa sen thiên nhiên, và nhà chiến lược thiên tài khởi xướng, tổng chỉ huy cuộc trường kỳ hành trình "Không có gì quí hơn Độc Lập, Tự Do", lại ra đời đúng lúc “Sen vừa trổ bông, cánh nhụy còn phong” tại một vùng quê, đẹp thay, cũng mang tên Kim Liên (Sen Vàng). Chính nhóm trùng hợp lịch sử, trùng hợp đời với sen đó, đã tạo thêm cho thơ một môi trường trữ tình rất thuận để khởi lên những cảm hứng dồi dào, những ý thơ đắc địa về Bác Hồ. Có cả một nguồn khai thác đến tận cùng từng chi tiết xoay quanh Sen. Thật tình tôi không khỏi ngạc nhiên một cách thú vị khi kể lại như thế này: Bông sen, hoa sen, búp sen, đóa sen, sen hồng, sen trắng, sen vàng, nhị sen, cánh sen, hương sen; đồng sen, đầm sen, ao sen, mùa sen, cho đến tranh sen, vầng sen, gió sen, mầm sen; và cả mầm - mống - sen, khả - năng - sen, sen loài người; rồi lại còn sen nở rộ, sen nở bừng, sen trổ bông, sen tỏa ngát, sen kết, sen soi đuốc, sen ngẩng nhìn, sen cột mốc hồng... Mà hầu như tất cả đều mang tính tượng trưng, tính ẩn dụ, tính biểu tượng và nhân cách hóa.
Tuy nhiên cũng có bài thơ không hề có tiếng "Sen" tiếng Bác, ấy thế nhưng qua giọng điệu, tâm huyết suy tư thế thái nhân tình gắn với danh tích Bến Nhà Rồng, với "một ngày đẹp nhất" (Ngày 19/5/1989), thì ta vẫn cảm thấy một ngọn gió đang thổi mùi hương đạo lý Sen - Cụ Hồ thấm đậm lòng ta, thậm chí có thể xốn xang gan ruột ta.
Bến xưa từng đợt sóng lành.
Một ngày đẹp nhất cho mình hôm nay.
Năm năm ta lại bến này.
Ngồi nghe sóng vỗ để suy nhân tình.
... Để xem trong cuộc phong trần.
Tâm linh có giữ được phần thanh cao?
... Để xem danh lợi trong vòng
Có còn giữ được trắng trong thuở nào?
Để xem khi bước lên lầu
Có còn nhớ thuở bên nhau mái nghèo?
Trong bài "Hương sen Tháp Mười" (Tháng 5 - 1991), Trần Thanh Đạm đã bình bài thơ "Năm năm ta lại bến này" của Bảo Định Giang, như sau "Ta thấy anh ngồi trầm tư nơi bến nước ngày xưa Bác đã ra đi, để nghe lòng tự hỏi lòng... Câu trả lời của nhà thơ hẳn nhiên là khẳng định. Mong mọi người đọc thơ anh cũng có câu trả lời như anh. Người già hay nói đạo lí, làm thơ đạo lí. Đôi khi bị người trẻ cười. Song cũng bất hạnh cho ai phải đợi đến tuổi già mới nghe, mới hiểu những điều đạo lí, khi đã quá muộn... Có những câu thơ của các nhà thơ đã giúp cho con người sống tốt cuộc đời mình, trong đó có những câu thơ của Bảo Định Giang. Thật vậy:
Tháp Mười sen nở bao mùa trước
Vẫn nở cho ai giữa Tết này
Một đóa sen đồng - lòng kính cẩn
Dâng Người - Xin gửi áng mây bay
Sen Kim Liên... Sen Tháp Mười... Sen nước Nam.
Sen của con người đẹp nhất đất nước vua Hùng, con người văn hóa nhân loại. Sen vĩnh hằng.
M.H
1990 - 1993
(TCSH55/05&6-1993)
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...