VĂN GIÁ
Nếu có thể ví toàn bộ sáng tạo thi ca của Hàn Mặc Tử như một cây thơ, thì ta đã nhận được về bao nhiêu là quả.
Ảnh: internet
Có quả lành quả ngọt, lại có quả chua quả đắng. Có quả xanh quả chín, lại có quả méo quả bầu; có quả hồng hào tròn trịa, lại thêm quả tái xám dị dạng dị hình... Chao ôi, ngắm cái cây thơ xum xuê trĩu trịt bao nhiêu là trái đọng ta không khỏi cất tiếng trầm trồ thán phục và kinh ngạc về một tài thơ và một đời thơ đại thụ nhường ấy, bạc mệnh nhường ấy!
Thì đây, Mùa xuân chín là thứ trái được kết vào giữa lúc thân cây cường tráng kia đã có con sâu bệnh đục thân đang mở đường phá phách. Nhưng mà lạ thay, như một nghịch lý, bao nhiêu là quả, trong đó có Mùa xuân chín này, thật tròn đầy, lành lặn, ngọt thơm - một thứ trái của vườn - không - cấm.
Mùa xuân hội lại về đây bao nhiêu là vàng nắng điểm hoa lấm tấm trên mái nhà gianh, vàng nắng như bàn tay ai mở tấm lụa trời "khói mơ" hư thực kia đi để lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật ngời ngời bao nhiêu là thôn nữ - các "Gái quê" đang thong dong bước vào cuộc hát, mỗi bước đi tưởng như còn nghe được tiếng "sột soạt" của những tà áo lất phất bay trong gió. Buổi mai mùa xuân trong sạch quá, thanh khiết đến êm đềm, và thật thanh bình:
"Sóng cỏ xanh non gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi"
Đó là một buổi sớm mai tinh khôi cổ điển. Nét vẽ của nhà thơ chỉ mượn một chút thôi thi hào họ Nguyễn - "cỏ non xanh rợn chân trời..." Nhưng cái không gian thoáng đãng mát lành ấy trong Hàn Mặc Tử được lược đi, được phác qua sơ giản hơn, nhanh gấp hơn. Nó như một nhát viền không gian dứt khoát và hào hao của nhà họa sĩ chuẩn bị cái khung trời để cho trung tâm điểm của bức tranh là con người xuất hiện.
Thiên nhiên và con người đang ở thế hài hòa, bình ổn. Người ta đang để hết lòng vào cuộc hát, cuộc chơi. Bỗng ngoắt một cái, hơi thở như một cái đập vai, vỗ nhẹ, nhắc ta:
"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi"
Nhà thơ "ác" với người đọc quá. Hồn ta như đang trôi đi trong lời ru ngọt lịm, bỗng thảng thốt giật mình, như thể có bàn tay nào đang tâm giật lấy giấc mơ lành không dễ gì có được, rồi kéo ta trở về với thực tại rành mạch đến nghiệt ngã, trần thế đến khó chịu kia. Đành thôi, lẽ tự nhiên là phải thế, nhưng nàng thôn nữ - những vẻ đẹp thuần phác và đầy thi vị kia chỉ là vẻ đẹp nhất thời, bất ổn, một vẻ đẹp cảm được chứ không sở hữu, không bao giờ thuộc hẳn về ta, và sẽ mất khỏi ta vĩnh viễn... Buồn biết bao! Người làm thơ vẩn vơ nhìn ngắm, để rồi nuối tiếc, để rồi bất lực. Người đọc thơ đang mê đi trong sắc hình thơ mộng, để rồi cũng... thở dài. Hóa ra, bất cứ ai đứng trước vẻ đẹp tận mỹ cũng sinh lòng khao khát và mặc cảm về sự bất lực của mình. Đó là một trạng thái tâm lý rất thật có ở con người.
Trên kia là vẻ đẹp của mùa xuân và những người đi hát. Nhà thơ sau khoảnh khắc buồn ấy, mới lại để hồn lắng nghe tiếng hát. Tiếng hát sao mà mỏng mảnh quá, non nớt quá, nghiêng nghiêng, đầy bất trắc. Nó định vị (mà kỳ thực không thể định vị được) ở cái thế "lưng chừng núi"; nó không dày dặn và tự tin mà "hổn hển"; âm lượng của nó chỉ "thầm thĩ", hiệu quả của nó trong nhà thơ là "ý vị và thơ ngây" - nhưng chỉ là "nghe ra" thôi, là có thể thế, hình như thế, chứ chưa là rõ ràng phải thế, ắt như thế... Hãy lắng nghe xem, hóa ra hình tượng tiếng ca trên đồi kia trong thế giới thụ cảm của nhà thơ chỉ là một cái gì vừa hữu hình vừa vô hình, rất động, bé nhỏ và non nớt, không cầm giữ được, dễ mất lắm thôi!
Rõ ràng, thực tại ngoài kia - mùa xuân và cuộc hát - đi vào hồn thơ tác giả như một trạng thái bất ổn, dễ đổi thay, dễ mất.
Khi ở trên kia, "lòng trí" nhà thơ dự cảm về phía tương lai, tiên cảm về cái "bước sang đời", cái chung cục tất yếu từ thân phận thiếu nữ sang thân phận đàn bà của bao người đi hát; thì giờ đây lòng trí nhà thơ lại thả về quá vãng:
"Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"
Lại hình tượng một người phụ nữ. Từ đám đông trở về tiêu điểm. Người phụ nữ xuất hiện đột ngột, bất ngờ và chân thực xiết bao. Trên một nền không gian mênh mang trắng không màu ấy, có một con người xuất hiện vạm vỡ, cường tráng, tràn đầy sinh lực, một vẻ đẹp của gái quê, một sức sống đồng nội. Tất cả được thể hiện mạnh bạo, bộc trực, bằng một cách tự nhiên nhất. Nó vụt hiện từ đáy sâu tâm thức, và đi ra từ một tâm lực rất đỗi khỏe khoắn lành mạnh của một người đã từng viết:
"Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em"
(Gái quê)
Và để rồi còn viết:
..."Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Nhưng mà, dù muốn hay không, câu thơ vẫn là một câu hỏi cũng như thể là bất chợt, là thảng thốt, là "sực nhớ" thôi, giật mình mà lo mà tiếc, sợ rằng sẽ không bao giờ còn được gặp lại một "mảnh hồn làng" ấm no, sung mãn, bình yên đến thế. Thời cuộc luôn luôn đổi thay mà.
Vậy là, mạch vận động của tâm trạng trong toàn bài thơ là bắt đầu từ thực tại bỗng dự cảm về tương lai, rồi lại trở về thực tại, để từ đó hoài niệm về quá khứ, cái khoảnh khắc chuyển đổi ấy nhanh gấp, dồn nén, bất chợt bùng ra, rạn vỡ. Nó chỉ có thể là kết quả của một trạng thái cảm xúc bề bộn của ý thức và vô thức, hoài niệm và dự cảm, bình yên và xung động, hư và thực... Đó cũng là những mô-măng tâm trạng in một dấu đậm lên thực tại đang vận động, luôn biến đổi không ngừng. Tất cả không gian, thời gian, cảnh vật, lòng người... đều ở trạng thái chín, cần phải đi vào cái thời điểm ắt sẽ biển đổi; tích tụ đã đủ rồi, cần phải chuyển sang dạng khác (nói theo triết học - lượng đã đủ và cần chuyển thành chất). Mùa xuân đã chín, đã viên mãn, đã căng ra, cái lẽ tự nhiên là ắt phải sang mùa. Con người hết cái tuổi hoa ắt sẽ phải sang tuổi quả; lòng không tĩnh tại, gặp tình cảnh khác ắt phải sang lòng. Vâng, sẽ có thể vỡ vụn lắm chứ, bởi ở toàn bài, suốt từ đầu đến cuối bị lèn chặt bởi các câu thơ, mà mỗi câu tải đến hai ba hình ảnh, thể biện vài ba nét tâm trạng, hàm chứa đến năm bảy nét nghĩa sâu xa... Tất cả được vặn hết đến độ đậm đặc và nặng đam do sự vận động tất yếu của cảm xúc thơ mang lại.
Thì đấy thôi, nhà thơ đã chẳng để lòng mình vươn xa tới mai sau, quay sâu về quá vãng là gì? Nếu không, bức tranh xuân kia sẽ có nguy cơ chật chội quá, nặng quá mà thành nứt ra, cộm lên, vỡ vụn... Cơ may, những mô-măng cứu thoát. Cái năng lực thụ cảm mạnh mẽ, sung mãn của một hồn thơ tinh nhạy thâu nhận được tất cả sự bất ổn về tình trạng biến đổi của thực tại - vũ trụ và con người.
Toàn bộ bài thơ quy về một điểm này thôi: Dự cảm về một vẻ đẹp hài hòa tự nhiên nhất của thực tại có nguy cơ bị phá vỡ.
Xuất phát điểm của bài thơ là tình trạng hài hòa của thế giới được làm nên bởi sự tương giao tự nhiên nhất của âm thanh, ánh sáng, màu sắc và cuộc hát. Thế mà ngay trong những dự cảm về tương lai, những hồi âm quá khứ bất chợt hiện về quấy phá. Trên dòng chảy trôi không ngừng của thực tại, thế giới hiện ra đẹp đẽ, giản dị nhưng cũng khắc nghiệt biết bao. Đó là cảm giác rất mạnh về vẻ đẹp hài hòa của thực tại nhưng không bao giờ trọn vẹn. Trọn vẹn làm sao được khi mà những vang động không nhỏ của thời cuộc, nhân tình thế sự ngày ngày dội vào cảm quan của hồn thi sĩ. Vả lại, con bệnh tàn khốc và đời tư cay nghiệt của nhà thơ sờ sờ ra đấy. Tất cả, như hùa nhau lại tấn công vào não trạng của thi nhân khi người đang còn quá trẻ, quá tha thiết với cõi đời.
Nhìn vào những bài thơ lành lặn và đẹp đẽ nhất của Hàn Mặc Tử, ta cũng dễ nhận ra miền cảm xúc thơ ca của ông không nằm ngoài xung lực tinh thần ấy. Hình ảnh ban đầu của Đây thôn Vĩ Dạ đang đẹp là thế, trọn vẹn là thế, bỗng bị xé lẻ ra một gió, một mây, một dòng nước, một hoa, một thuyền, một trăng, một thi nhân thả hồn ôm bóng một giai nhân... để rồi cuối cùng hoài nghi, hỏi người mà như tự vấn: "Ai biết tình ai có đậm đà?". Vậy chẳng phải là một thế giới hài hòa vẻ đẹp nhưng cũng thật mỏng manh được thụ cảm tinh nhạy đến tuyệt cùng đó sao?(!)
Trở lại Mùa xuân chín, ta mới hiểu vì sao âm hưởng chủ đạo của bài thơ là một niềm bi cảm, một nỗi buồn xa xót tiếc nuối thấm thía đến sâu thẳm. Đó là một tình cảm thi ca gợi cho ta chạnh nghĩ về đời người, đời mình, cái nhất thời và cái vĩnh viễn, cái có nghĩa và cái vô nghĩa... Bài thơ như một tiếng buồn cất lên giữa một thời buồn của một kiếp buồn.
Còn đòi gì hơn nữa? Vào cái thời ấy lại có ai vui được? Nỗi buồn thuần khiết và thanh cao thế chả hiếm lắm sao! Cái tôi tâm trạng được đào đến tận cùng và tìm mọi cách để thể hiện bằng được. Nên, nó thành thực và có trọng lượng đáng kể, nó mãi mãi vẫn còn hòa điệu với mai sau.
Cả bài thơ là một vẻ đẹp của một nỗi buồn lớn đầy dự cảm trước một tình trạng vận động của thời cuộc luôn luôn phá vỡ sự hài hòa - cái mà con người hằng khao khát. Cảm quan triết học đã tham gia tích cực vào việc thụ cảm thế giới, nhưng nó tan nhuyễn vào tâm trạng và hình ảnh một cách tự nhiên nhất, vô thức nhất. Nó làm nên độ sâu thẳm không cùng của bài thơ mà ngôn ngữ của con người không thể chỉ ra này là một là hai... rành mạch được.
Ngày nay từ một mảnh vật chất thôi, người ta có khả năng phục chế được diện mạo trọn vẹn của một thực thể vật chất, sinh vật, kể cả con người. Từ trái Mùa xuân chín thơm lành và ngon ngọt đây, ta cũng có thể nhận diện được cái sức sống quyết liệt của Cây - thơ - Hàn -Mặc - Tử - ngoài đời đã từng chống chọi đến cùng với bệnh tật - và trong thơ vẫn còn lừng lững tỏa bóng, bền bỉ đầu thai vạn thuở vào sự trường cửu của nền văn học dân tộc.
Nhiều người viết về bài thơ này của Tử, nhưng đâu dễ có mấy người hiểu được Tử của Mùa xuân chín, thi nhân Gành Ráng ơi!...
Cũng là đứng trước Cái Đẹp, người ta thường khao khát và bất lực!...
Một lần nữa xin nâng trên đôi tay mình.
Mùa xuân chín...
Chiều 19.4.89
V.G
(TCSH44/01-1991)
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)
NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.
THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.
HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.
PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.
MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.
ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…
ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.
LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.
INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)
HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...” Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?
HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?