Thêm một lần cầm trên tay 'Mùa xuân chín'

15:48 14/09/2018

VĂN GIÁ

Nếu có thể ví toàn bộ sáng tạo thi ca của Hàn Mặc Tử như một cây thơ, thì ta đã nhận được về bao nhiêu là quả.

Ảnh: internet

Có quả lành quả ngọt, lại có quả chua quả đắng. Có quả xanh quả chín, lại có quả méo quả bầu; có quả hồng hào tròn trịa, lại thêm quả tái xám dị dạng dị hình... Chao ôi, ngắm cái cây thơ xum xuê trĩu trịt bao nhiêu là trái đọng ta không khỏi cất tiếng trầm trồ thán phục và kinh ngạc về một tài thơ và một đời thơ đại thụ nhường ấy, bạc mệnh nhường ấy!

Thì đây, Mùa xuân chín là thứ trái được kết vào giữa lúc thân cây cường tráng kia đã có con sâu bệnh đục thân đang mở đường phá phách. Nhưng mà lạ thay, như một nghịch lý, bao nhiêu là quả, trong đó có Mùa xuân chín này, thật tròn đầy, lành lặn, ngọt thơm - một thứ trái của vườn - không - cấm.

Mùa xuân hội lại về đây bao nhiêu là vàng nắng điểm hoa lấm tấm trên mái nhà gianh, vàng nắng như bàn tay ai mở tấm lụa trời "khói mơ" hư thực kia đi để lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật ngời ngời bao nhiêu là thôn nữ - các "Gái quê" đang thong dong bước vào cuộc hát, mỗi bước đi tưởng như còn nghe được tiếng "sột soạt" của những tà áo lất phất bay trong gió. Buổi mai mùa xuân trong sạch quá, thanh khiết đến êm đềm, và thật thanh bình:

"Sóng cỏ xanh non gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi"

Đó là một buổi sớm mai tinh khôi cổ điển. Nét vẽ của nhà thơ chỉ mượn một chút thôi thi hào họ Nguyễn - "cỏ non xanh rợn chân trời..." Nhưng cái không gian thoáng đãng mát lành ấy trong Hàn Mặc Tử được lược đi, được phác qua sơ giản hơn, nhanh gấp hơn. Nó như một nhát viền không gian dứt khoát và hào hao của nhà họa sĩ chuẩn bị cái khung trời để cho trung tâm điểm của bức tranh là con người xuất hiện.

Thiên nhiên và con người đang ở thế hài hòa, bình ổn. Người ta đang để hết lòng vào cuộc hát, cuộc chơi. Bỗng ngoắt một cái, hơi thở như một cái đập vai, vỗ nhẹ, nhắc ta:

"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi"

Nhà thơ "ác" với người đọc quá. Hồn ta như đang trôi đi trong lời ru ngọt lịm, bỗng thảng thốt giật mình, như thể có bàn tay nào đang tâm giật lấy giấc mơ lành không dễ gì có được, rồi kéo ta trở về với thực tại rành mạch đến nghiệt ngã, trần thế đến khó chịu kia. Đành thôi, lẽ tự nhiên là phải thế, nhưng nàng thôn nữ - những vẻ đẹp thuần phác và đầy thi vị kia chỉ là vẻ đẹp nhất thời, bất ổn, một vẻ đẹp cảm được chứ không sở hữu, không bao giờ thuộc hẳn về ta, và sẽ mất khỏi ta vĩnh viễn... Buồn biết bao! Người làm thơ vẩn vơ nhìn ngắm, để rồi nuối tiếc, để rồi bất lực. Người đọc thơ đang mê đi trong sắc hình thơ mộng, để rồi cũng... thở dài. Hóa ra, bất cứ ai đứng trước vẻ đẹp tận mỹ cũng sinh lòng khao khát và mặc cảm về sự bất lực của mình. Đó là một trạng thái tâm lý rất thật có ở con người.

Trên kia là vẻ đẹp của mùa xuân và những người đi hát. Nhà thơ sau khoảnh khắc buồn ấy, mới lại để hồn lắng nghe tiếng hát. Tiếng hát sao mà mỏng mảnh quá, non nớt quá, nghiêng nghiêng, đầy bất trắc. Nó định vị (mà kỳ thực không thể định vị được) ở cái thế "lưng chừng núi"; nó không dày dặn và tự tin mà "hổn hển"; âm lượng của nó chỉ "thầm thĩ", hiệu quả của nó trong nhà thơ là "ý vị và thơ ngây" - nhưng chỉ là "nghe ra" thôi, là có thể thế, hình như thế, chứ chưa là rõ ràng phải thế, ắt như thế... Hãy lắng nghe xem, hóa ra hình tượng tiếng ca trên đồi kia trong thế giới thụ cảm của nhà thơ chỉ là một cái gì vừa hữu hình vừa vô hình, rất động, bé nhỏ và non nớt, không cầm giữ được, dễ mất lắm thôi!

Rõ ràng, thực tại ngoài kia - mùa xuân và cuộc hát - đi vào hồn thơ tác giả như một trạng thái bất ổn, dễ đổi thay, dễ mất.

Khi ở trên kia, "lòng trí" nhà thơ dự cảm về phía tương lai, tiên cảm về cái "bước sang đời", cái chung cục tất yếu từ thân phận thiếu nữ sang thân phận đàn bà của bao người đi hát; thì giờ đây lòng trí nhà thơ lại thả về quá vãng:

"Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?"

Lại hình tượng một người phụ nữ. Từ đám đông trở về tiêu điểm. Người phụ nữ xuất hiện đột ngột, bất ngờ và chân thực xiết bao. Trên một nền không gian mênh mang trắng không màu ấy, có một con người xuất hiện vạm vỡ, cường tráng, tràn đầy sinh lực, một vẻ đẹp của gái quê, một sức sống đồng nội. Tất cả được thể hiện mạnh bạo, bộc trực, bằng một cách tự nhiên nhất. Nó vụt hiện từ đáy sâu tâm thức, và đi ra từ một tâm lực rất đỗi khỏe khoắn lành mạnh của một người đã từng viết:

"Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em"
                              (Gái quê)

Và để rồi còn viết:

..."Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
                    (Đây thôn Vĩ Dạ)

Nhưng mà, dù muốn hay không, câu thơ vẫn là một câu hỏi cũng như thể là bất chợt, là thảng thốt, là "sực nhớ" thôi, giật mình mà lo mà tiếc, sợ rằng sẽ không bao giờ còn được gặp lại một "mảnh hồn làng" ấm no, sung mãn, bình yên đến thế. Thời cuộc luôn luôn đổi thay mà.

Vậy là, mạch vận động của tâm trạng trong toàn bài thơ là bắt đầu từ thực tại bỗng dự cảm về tương lai, rồi lại trở về thực tại, để từ đó hoài niệm về quá khứ, cái khoảnh khắc chuyển đổi ấy nhanh gấp, dồn nén, bất chợt bùng ra, rạn vỡ. Nó chỉ có thể là kết quả của một trạng thái cảm xúc bề bộn của ý thức và vô thức, hoài niệm và dự cảm, bình yên và xung động, hư và thực... Đó cũng là những mô-măng tâm trạng in một dấu đậm lên thực tại đang vận động, luôn biến đổi không ngừng. Tất cả không gian, thời gian, cảnh vật, lòng người... đều ở trạng thái chín, cần phải đi vào cái thời điểm ắt sẽ biển đổi; tích tụ đã đủ rồi, cần phải chuyển sang dạng khác (nói theo triết học - lượng đã đủ và cần chuyển thành chất). Mùa xuân đã chín, đã viên mãn, đã căng ra, cái lẽ tự nhiên là ắt phải sang mùa. Con người hết cái tuổi hoa ắt sẽ phải sang tuổi quả; lòng không tĩnh tại, gặp tình cảnh khác ắt phải sang lòng. Vâng, sẽ có thể vỡ vụn lắm chứ, bởi ở toàn bài, suốt từ đầu đến cuối bị lèn chặt bởi các câu thơ, mà mỗi câu tải đến hai ba hình ảnh, thể biện vài ba nét tâm trạng, hàm chứa đến năm bảy nét nghĩa sâu xa... Tất cả được vặn hết đến độ đậm đặc và nặng đam do sự vận động tất yếu của cảm xúc thơ mang lại.

Thì đấy thôi, nhà thơ đã chẳng để lòng mình vươn xa tới mai sau, quay sâu về quá vãng là gì? Nếu không, bức tranh xuân kia sẽ có nguy cơ chật chội quá, nặng quá mà thành nứt ra, cộm lên, vỡ vụn... Cơ may, những mô-măng cứu thoát. Cái năng lực thụ cảm mạnh mẽ, sung mãn của một hồn thơ tinh nhạy thâu nhận được tất cả sự bất ổn về tình trạng biến đổi của thực tại - vũ trụ và con người.

Toàn bộ bài thơ quy về một điểm này thôi: Dự cảm về một vẻ đẹp hài hòa tự nhiên nhất của thực tại có nguy cơ bị phá vỡ.

Xuất phát điểm của bài thơ là tình trạng hài hòa của thế giới được làm nên bởi sự tương giao tự nhiên nhất của âm thanh, ánh sáng, màu sắc và cuộc hát. Thế mà ngay trong những dự cảm về tương lai, những hồi âm quá khứ bất chợt hiện về quấy phá. Trên dòng chảy trôi không ngừng của thực tại, thế giới hiện ra đẹp đẽ, giản dị nhưng cũng khắc nghiệt biết bao. Đó là cảm giác rất mạnh về vẻ đẹp hài hòa của thực tại nhưng không bao giờ trọn vẹn. Trọn vẹn làm sao được khi mà những vang động không nhỏ của thời cuộc, nhân tình thế sự ngày ngày dội vào cảm quan của hồn thi sĩ. Vả lại, con bệnh tàn khốc và đời tư cay nghiệt của nhà thơ sờ sờ ra đấy. Tất cả, như hùa nhau lại tấn công vào não trạng của thi nhân khi người đang còn quá trẻ, quá tha thiết với cõi đời.

Nhìn vào những bài thơ lành lặn và đẹp đẽ nhất của Hàn Mặc Tử, ta cũng dễ nhận ra miền cảm xúc thơ ca của ông không nằm ngoài xung lực tinh thần ấy. Hình ảnh ban đầu của Đây thôn Vĩ Dạ đang đẹp là thế, trọn vẹn là thế, bỗng bị xé lẻ ra một gió, một mây, một dòng nước, một hoa, một thuyền, một trăng, một thi nhân thả hồn ôm bóng một giai nhân... để rồi cuối cùng hoài nghi, hỏi người mà như tự vấn: "Ai biết tình ai có đậm đà?". Vậy chẳng phải là một thế giới hài hòa vẻ đẹp nhưng cũng thật mỏng manh được thụ cảm tinh nhạy đến tuyệt cùng đó sao?(!)

Trở lại Mùa xuân chín, ta mới hiểu vì sao âm hưởng chủ đạo của bài thơ là một niềm bi cảm, một nỗi buồn xa xót tiếc nuối thấm thía đến sâu thẳm. Đó là một tình cảm thi ca gợi cho ta chạnh nghĩ về đời người, đời mình, cái nhất thời và cái vĩnh viễn, cái có nghĩa và cái vô nghĩa... Bài thơ như một tiếng buồn cất lên giữa một thời buồn của một kiếp buồn.

Còn đòi gì hơn nữa? Vào cái thời ấy lại có ai vui được? Nỗi buồn thuần khiết và thanh cao thế chả hiếm lắm sao! Cái tôi tâm trạng được đào đến tận cùng và tìm mọi cách để thể hiện bằng được. Nên, nó thành thực và có trọng lượng đáng kể, nó mãi mãi vẫn còn hòa điệu với mai sau.

Cả bài thơ là một vẻ đẹp của một nỗi buồn lớn đầy dự cảm trước một tình trạng vận động của thời cuộc luôn luôn phá vỡ sự hài hòa - cái mà con người hằng khao khát. Cảm quan triết học đã tham gia tích cực vào việc thụ cảm thế giới, nhưng nó tan nhuyễn vào tâm trạng và hình ảnh một cách tự nhiên nhất, vô thức nhất. Nó làm nên độ sâu thẳm không cùng của bài thơ mà ngôn ngữ của con người không thể chỉ ra này là một là hai... rành mạch được.

Ngày nay từ một mảnh vật chất thôi, người ta có khả năng phục chế được diện mạo trọn vẹn của một thực thể vật chất, sinh vật, kể cả con người. Từ trái Mùa xuân chín thơm lành và ngon ngọt đây, ta cũng có thể nhận diện được cái sức sống quyết liệt của Cây - thơ - Hàn -Mặc - Tử - ngoài đời đã từng chống chọi đến cùng với bệnh tật - và trong thơ vẫn còn lừng lững tỏa bóng, bền bỉ đầu thai vạn thuở vào sự trường cửu của nền văn học dân tộc.

Nhiều người viết về bài thơ này của Tử, nhưng đâu dễ có mấy người hiểu được Tử của Mùa xuân chín, thi nhân Gành Ráng ơi!...

Cũng là đứng trước Cái Đẹp, người ta thường khao khát và bất lực!...

Một lần nữa xin nâng trên đôi tay mình.

Mùa xuân chín...

Chiều 19.4.89
V.G
(TCSH44/01-1991)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.