Thanh đàm về An Thường công chúa

19:05 19/06/2009
LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.

Dân gian nghĩ Bà chúa giàu sang, sao lại không bỏ tiền của ra để xây một cái cửa Tam quan ra vào cho đệ trạch của mình xứng danh với con gái thứ 4 của vua Minh Mạng mà lại chọn mô hình một cái cổng gỗ phía trên lợp ngói quá ư khiêm tốn, thể hiện tính cách thanh cao: công dung ngôn hạnh. Hỏi ra mới biết người sao thì của vậy. Đó là cái cổng truyền thống mà lúc sinh thời từ năm 1841 đến 1891 Bà chúa ưa thích nhất. Từ đó cho đến nay, khuôn viên ấy trở thành di tích AN THƯỜNG CÔNG CHÚA TỪ được du khách phương Tây hiếu kỳ dừng lại thu hình vào ống kính.

Năm 1960, một học sinh xứ Huế hoài niệm nét đẹp dung dị của ngôi nhà vườn vừa là nhà thờ An Thường công chúa đã sáng tác bài tứ tuyệt:

Con đường trưa nắng, gió hiu hiu
Ngây ngất người qua, tiếng sáo diều
Đây chốn An Thường công chúa nghỉ
Lưng chừng khóm trúc dáng liêu xiêu
                       
(Đồng Di Đỗ Hà)

Ngày xưa, nơi công chúa nghỉ có đến 9 ngôi nhà quay mặt ra bờ sông theo
cách gọi của ngôn ngữ cung đình: 8 nhà ngơi và một nhà cối để dự trữ lương thực trong kho lẫm và các người phục dịch xay, giã, sàng, dần lúa gạo. Dưới sông sau đệ trạch là bến nước có đến năm chiếc đò nhiều mui che đậu sẵn để đưa Bà chúa và con cháu theo hầu đi vào cung vua, lên sơn lăng, ra quê chồng ở Quảng Trị bằng đường thủy và đi chợ xa gần mua hàng cho vừa ý.

Chợ Cống có tự bao giờ? Lẽ tất nhiên chợ phải có sau cống thoát nước
cho nên mới mang tên CHỢ CỐNG. Các mương nước đều chảy qua cống trước khi đổ ra sông Lục Bình, một khúc sông của sông Thiên Lộc - đổi tên thành Thọ Lộc dưới thời vua Tự Đức sau khi chùa Thiên Mụ đổi tên thành Linh Mụ vào năm 1862 cho thuận lẽ trời đất. Nhớ lại, năm 1841 Bà chúa An Thường hạ giá về nhận đất lập đệ trạch gần bên xưởng đóng thuyền của thủy binh hoàng gia, cư trú theo sắc chỉ của vua Thiệu Trị cho phép Bà chúa cưng chìu xe duyên với Phò mã Đô úy Phan Văn Uýnh, con trai thứ của Hậu quân Đô Thống Chưởng Phủ sự Phan Văn Túy mà quốc sử phiên âm thành Phan Văn Thúy. Thiết nghĩ đó là đầu dây mối dợ cho người đời nay cãi nhau về chùa Túy Vân hay Thúy Vân, với nhiều lý do khác nhau. Chùa có tên chữ là THÁNH DUYÊN ở núi Túy Vân tiền thân là núi Mỹ Am bên cửa biển Tư Hiền. Gia phổ họ Phan ở làng Đạo Đầu, tổng An Lưu, huyện Đăng Xương đã ghi và phiên âm thì làm sao mà “cại lại được”.

Đoán chừng thì cống nước xây sau năm 1814, năm đào sông An Cựu nắng đục mưa trong. Trước đó, chợ Cống có tên là chợ Áo Tơi. Nay dùng áo mưa đủ loại thì ngày xưa dùng tơi kè che nắng đổ lên vai mà yên tâm cày cấy, tơi mang chống mưa lạnh theo lối mưa tạt gió vầy. Cao sang nhất như vua Minh Mạng mà còn mang áo tơi xây bằng lá đọt và đội nón ra vườn Thiệu Phương trong Đại Nội để xem các phi tần, công chúa trồng rau quả. Trong các mẩu áo tơi ở các làng quê vùng Thuận Hóa, nổi tiếng nhất là tơi chợ Chùa. Chợ này ở đâu? - Ở làng Hà Tây
nằm bên bờ Nam cửa Việt. Tơi bán tại chợ này là một sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng của xứ Thuận Hóa: Quạt Phương Ngạn, tơi Chợ Chùa. Quạt Hoa Ngạn nổi tiếng, đủ loại: quạt tre, quạt lụi, quạt tán đinh đồng, đinh bạc quạt nhiều nan lợp bằng giấy dó hoặc bằng lụa... Vì kỵ húy chữ “Hoa”, tên mẹ vua Thiệu Trị mà đổi tên làng Hoa Ngạn ra Phương Ngạn. Chuyện tơi, chuyện quạt lại dính liền với chuyện hai chùa Diệu Đế và Báo Quốc: Quảng Trị Trung Kiên, Thừa Thiên Dạ Lê. Trung Kiên và Dạ Lê là hai làng phát sinh nhiều bậc danh tăng của xứ Thuận Hóa. Làng Phương Ngạn sát bên làng Đâu Kênh, làng Bích Khê (tên cũ Hồng Khê), đối chênh qua sông Thạch Hãn là thôn Trung Kiên. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã từng ngự giá ở làng Đâu Kênh, huyện Võ Xương thăm chùa Thiên Tân và được dân làng dâng quạt; chúa ngự để biển chùa bằng chữ vàng, tặng tượng Phật và đồ thờ quý giá. Quạt Phương Ngạn là đặc sản của tỉnh Quảng Trị đã từng được chọn làm sản phẩm dự hội chợ Đông Dương thời Pháp thuộc vào đầu thế kỷ 20, khi mà ngành du lịch Việt Nam bước đầu phát triển. Thời ấy, con vua cháu chúa ở chốn cung cấm cảm thấy ngỡ ngàng trước những biến chuyển buổi giao thời, thay cũ đổi mới của làn sóng Âu hóa.

An Thường Công chúa sinh ngày 13 tháng 6 năm Đinh Sửu (26/ 7/ 1817) là chị khác mẹ với Tùng Thiện vương và Tuy Lý vương, cùng mẹ với Hàm Thuận công Nguyễn Phúc Miên Thủ, con trai thứ 9 của vua Minh Mạng; mẹ là Mỹ nhân Nguyễn Thị Bân, người huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị. Về sau chia huyện
Minh Linh, và lập huyện mới Địa Linh, đổi thành Gio Linh vào năm 1886. Quê ngoại của bà công chúa thuộc huyện Gio Linh, nơi có sản vật sắn dây, khoai mài, môn sọ, môn chúm nổi tiếng dùng làm phẩm vật tiến cung vua.

Lúc còn nhỏ tuổi, hoàng nữ có tên là Tam Xuân, lớn lên được vua cha
Minh Mạng, dựa vào bản chất và tính khí của con gái mình mà đặt tên là Nguyễn Phúc Lương Đức.

Về tiểu sử của Bà chúa là người con chí hiếu và mẫu mực thì xưa nay ngoài quốc sử đã ghi chép còn có thêm tạp chí Tri Tân số 113 ra ngày 23.9.1943 với bài viết của học giả Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ cũng viết trong tạp chí ấy nói về lòng hiếu thảo của An Thường công chúa và vào thập niên 60 thế kỷ 20, nhà văn Trịnh Văn Thanh chọn dùng lại trong cuốn từ điển Việt Nam danh nhân lịch sử, tập II.

Năm Mậu Thân 1848, Đức bà được tôn phong là AN THƯỜNG CÔNG CHÚA. An Thường là thuật ngữ Phật học vừa là tên một địa danh làng xã của tỉnh Bắc Ninh, nơi có nhiều người đẹp thông tuệ, nết na và thùy mỵ. Chuyện tình duyên của Bà chúa có chút oái ăm mà hơn một năm sau ngày cưới long trọng ở Tôn Nhân phủ mới rò rĩ xuất phát từ dư luận quần chúng.

Nhờ đọc PHAN GIA THẾ PHỔ và lắng nghe chuyện kể kiểu Liêu Trai chí dị mới biết: Đường vào tình duyên của Đức bà muôn vàn ngõ ngách. Con trai thứ của Hậu quân Đô Thống Chưởng Phủ sự là PHAN VĂN TÚY có trước một đời vợ ở làng quê Đạo Đầu, tổng An Lưu, huyện Đăng Xương (Triệu Phong ngày nay). Ngày xưa ở xứ đồng ruộng phì nhiêu, có lệ tảo hôn. Cha mẹ thường sớm cưới vợ cho con trai và lại chọn những cô thôn nữ lớn tuổi đảm đang việc nhà. Quan Hậu quân trong một lần bệ kiến vua Minh Mạng, nhà vua ướm hỏi: Khanh có con trai nào đến tuổi trưởng thành mà chưa lập gia thất không? Quan Đô Thống bẩm tâu Hoàng thượng: Bẩm dạ có, nhưng con nhà võ có nét chân phương thô thiển, xin Bệ hạ r lòng thương. Lời tâu khá xẳng xái như thể hiện đáp ứng được yêu cầu của người hỏi chuyện. Quan Hậu quân Đô Thống nghĩ lại đã lỡ lời thì khó lòng thu lại, sợ mang tội bất kính. Phụng mệnh thì phải lo thu tóm việc nhà cho ổn thỏa. Hoàng thượng ướm hỏi tức là tinh sớm chuyện tương lai: muốn kết tình thông gia, bằng lòng g công chúa Lương Đức cho con trai của Đại thần gốc quan võ là Phan Văn Túy. Ngoài những chiến công hiển hách được khắc tên vào bia Võ công ở Võ miếu, Hậu quân Đô Thống còn có công trạng lớn lao trong việc đào sông Vĩnh Định thông đường giao lưu mở từ Kinh kỳ ra đến tỉnh Quảng Bình. Nhờ vậy mà nhà vua ngự giá ra Thăng Long bằng đường thủy rất tiện lợi, còn dân chúng thì đi lại dễ dàng bằng những chuyến đò dọc từ kinh đô Huế ra các tỉnh thành phía Bắc.

Đã trót buông câu đã lỡ thì phải lần. Vào thời bấy giờ quan Đô Thống đầy quyền lực trong tay, giữ chức Phó Tổng trấn Bắc Thành như một Phó vương.
Sở dĩ nhà vua không lập chức Tổng trấn nhằm ngăn ngừa hậu hoạn như đời vua trước mà Tiền quân Nguyễn Văn Thành đã từng là nạn nhân vì có định kiến với Tả quân Lê Văn Duyệt xuất thân là hoạn quan.

Sau đó, quan Phó Tổng trấn trở về quê nhà thu xếp đưa con dâu và cháu nội ra Bắc Hà “tỵ nạn”, hủy bỏ việc hôn phối của con trai mình, bằng con đường “ly
dị” khác nào chuyện hôn nhân giả tạo ngày nay để tiện việc xuất cảnh ra nước ngoài vậy.

Mọi việc hoàn thành như dự tính. Ngày dẫn cưới đã đến: cành vàng lá ngọc xe duyên với bách tánh theo nhạc tấu bài “loan phụng hòa minh” đưa nàng công chúa ra miền Ô Châu ác địa bái yết gia đường hương hỏa. Bà chúa chẳng hề nghe dư luận gì xôn xao ở chốn thôn dã. Bài bản sắp xếp có hương lý, trưởng lão tín cẩn đồng tình ủng hộ. Nếu có ai “bật mí” thì xem như nhẹ tội: Phò mã đã có con riêng và nay đã ly dị vợ nên vẫn độc thân chưa vợ. Lợi ích chung cho làng thì ai mà chẳng ưa: trồng tre cậy một phía, trồng mía cậy một hàng. Cái lối bọc lót, che chắn ấy thì người dân quê khá sành sỏi, tùy thời mà ứng biến để bảo vệ làng xã sống đời bình an.

Về sau nhà vua và An Thường công chúa biết chuyện xưa nhưng vì n tình và chuyện đã thành nên đành lờ đi: sự thành bất thuyết. An Thường công chúa có tấm lòng cao thượng, rộng lượng không hề phiền trách mà lại coi con chồng ở xa ngàn dặm như con của mình vậy. Chính vì thế mà sau này đã hình thành một nhánh của chi tộc họ Phan ở Bắc Hà, có danh có phận nở mặt với đời.

Gia phong nhà chồng được Bà chúa hun đúc ngày một rạng rỡ như ý nghĩa của hai vế câu đối bằng chữ Hán treo ở nhà thờ An Thường công chúa:

Tích thiện bội căn miên thế trạch
Truyền kinh giáo tử hoán nhân văn

Tạm dịch:

Tu nhơn tích đức gia cảnh đẹp
Giữ ngọc gìn vàng lẽ thường an

Ngày nay, đọc chính sử thời xưa nhiều khi không nhớ hết, thỉnh thoảng nghe chuyện dã sử bổ sung thêm để nhớ biết chuyện “thiệt lục” thuở xa xăm, đã tan loãng và hòa điệu với dã sử hoặc bổ sung cho quốc sử. Làng nước, họ tộc cũng có chính sử và dã sử. Gần chết rồi, đức ông chồng mới nói cho vợ con nghe chuyện thật trước giờ ly biệt cõi trần: chuyện ông ông biết, chuyện bà bà hay. Chuyện thế gian đúng 100% là như rứa đó!

Bà chúa thông tuệ và đạo hạnh, cho nên dễ dàng nhận ra lẽ vô thường. Bà tu Tiên, tu Phật, tu theo đạo nhà và thậm chí tu ở chợ Cống, chợ Được, chợ Xước Dũ, chợ Đông Ba là có thật. Bà chúa An Thường có chút của hồi môn, có quà tặng của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh và Thành Thái. Nhưng tiền vào rồi lại đội nón ra đi. Bà lo việc nhà chồng, việc hầu kỵ ở sơn lăng và triều miếu, thậm chí ban phát lại cho cháu con, cho cư dân quanh vùng chợ Cống khó nghèo, tật bệnh và cô quả. Đến ni đất vườn cũng nhường lại cho em trai là Hoàng tử Miên Thủ để chị em ở gần nhau dễ dàng bao bọc che ch cho nhau. Bà đi mua hàng không bao giờ ép giá tại các chợ ở phủ Thừa Thiên và tỉnh Quảng Trị. Con cháu bên chồng ở làng Đạo Đầu vào thăm Đức bà đều được tặng quà và lộ phí đi đường; bà con bên ngoại ở huyện Gio Linh cũng hưởng được ân sủng quý giá ấy.

Cuối đời, Đức bà tu Phật, có đạo hiệu THANH TỪ nhưng chắc chắn là đi chùa TƯỜNG VÂN cùng với ngài Tuy Lý vương đã quy y với Tổ TỊNH HẠNH. Phủ Tuy
Lý là phủ đệ duy nhất ở Huế vào thời xưa có đến hai ngôi chùa thân thuộc. Chùa Phước Huệ ở gần bên phủ Tuy Lý và chùa Thiên Hòa ở làng Dương Xuân thượng.

Di sản của Đức bà để lại ở An Thường công chúa từ là tượng ĐỨC QUAN THẾ ÂM bằng thủy tinh trong suốt đặt trong khán thờ.

Bà mất ngày 6 tháng 4 năm Tân Mão (13.5.1891) thọ 75 tuổi ta. Vua
Thành Thái và Phụ chính Đại thần kiêm quản Tả Tôn chính Tôn Nhân phủ là Tuy Lý vương vô cùng thương tiếc.

Khâm Thiên giám, phủ Thừa Thiên, Tôn Nhân phủ và gia đình định ngày lành tháng tốt để chung lo việc tống táng. Chọn cho ra ngày lành để làm lễ đưa tang là điều cực kỳ nan giải. Cuối cùng đành phải chọn phương án quàn linh cữu tại khuôn viên hơn một năm. Đến đầu tháng giêng năm Quý Tỵ, 1893 mới cử hành lễ đưa tang. Chuyện có thật và đã có bút tích của con cháu ghi lại.

Thừa hưởng ân đức cao dày của ngài Đô Thống Chưởng Phủ sự, con cháu của Đức bà đã sống đúng theo quan niệm Cư Nho Mộ Thích như ý nghĩa câu đối mà nhà văn Trần Thanh Mại viết nhân lễ viếng anh rể của mình là cụ Phan Văn Dư, cháu gọi Đức bà bằng bà nội mất vào ngày 26 tháng 7 năm Kỷ Mão (9.9.1939) mà học giả Phan Văn Dật đã ghi chép lại:

Hỷ xả suốt một đời, chẳng tụng niệm, chẳng trai chay;
thuyền đạo cũng đưa về cõi Phật;
Gia đình gồm mấy họ, nào nấng nuôi, nào giúp đỡ;
quả lê không thẹn với chàng Trương.

Đôi dòng ghi lại vài mẩu chuyện chọn lọc để nhớ mãi về An Thường công chúa, nhân ngày húy kỵ thứ 118 của Đức bà danh giá, xuất thân từ chốn cung đình và trưởng thành giữa lòng dân gian. Trải qua biết bao thăng trầm, nhưng hạnh phúc thay cuối đời Đức bà biết tìm đến chốn Thiền môn và để lại tiếng thơm quý giá hai mặt ĐẠO-ĐỜI hòa quyện, lưu luyến gió Túy Vân, trăng Thiên Mụ và còn cả núi Mai sông Hãn của miền Thuận Hóa.

Mùa Phật Đản, PL. 2553
L.Q.T
(244/06-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHẠM THỊ ANH NGA

    Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.

  • LÊ VĂN LÂN

    Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.

  • NGUYỄN MINH VỸ
                    Hồi ký

    Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.

  • LƯƠNG AN

    Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.

  • (SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.

  • Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.

  • LÊ VĂN LÂN

    Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.

  • PHAN THUẬN AN

    "Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
    "Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
    "Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.

  • LÊ TIẾN DŨNG 

    Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.

  • ĐOÀN XANH 

    Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.

  • Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
                        Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)

  • Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi

  • Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một  đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.

  • Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn”  -  hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

  • VÕ SƠN TRUNG

    Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).

  • Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.