Tầm soát tự kỷ từ linh khu đồ cổ truyền

10:15 28/04/2014

PHẠM ĐỨC DƯƠNG

GS.TS Phạm Đức Dương, nguyên là Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Tổng biên tập 2 tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á và Việt Nam Đông Nam Á; Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á, Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa Phương Đông...

Tôi có duyên may được làm quen với thầy thuốc - nhà giáo Lê Hưng VKD - một nhà nghiên cứu hiếm hoi trong thời đại ngày nay, đang giữ gìn một kho kiến thức đồ sộ của nền Văn hóa phương Đông (Nho Y Lý số) và đang hiện đại hóa nó để truyền thừa lại cho con cháu mai sau...

Là người đã thành lập Viện Nghiên cứu Văn hóa phương Đông (thuộc Hội Khoa học Đông Nam Á Việt Nam), tôi có sự đồng cảm sâu sắc và mến trọng Lê Hưng VKD khi được đọc nhiều tác phẩm của ông.

Như mọi người đều biết, chúng ta được sinh ra lớn lên và tắm mình trong môi trường Văn hóa phương Đông, nhưng tiếc rằng nền văn hóa đó không có chỗ đứng rõ rệt trong giáo dục Việt Nam hiện đại. Vì vậy nền tri thức cổ học vĩ đại này tuy được nhiều người yêu mến nó bảo lưu, gìn giữ... nhưng cũng đã mai một rất nhiều!

Nếu như đầu thế kỷ XX, các nước châu Á đi tìm con đường phát triển đất nước trong phong trào “Âu hóa”, thì đến những năm cuối thế kỷ này người Phương Tây lại đi tìm những giá trị châu Á để vượt qua sự suy thoái. Do đó thế kỷ XXI này sẽ là thế kỷ hội nhập Đông Tây với dự báo về những thành tựu mới.

Nhà giáo Lê Hưng VKD vốn xuất thân trong gia đình nho học danh tiếng ở phố Hiến tỉnh Hưng Yên (nhất kinh kỳ nhì phố Hiến, thuộc dòng họ Lê Lã); từ thời cụ Thiên Lương đã mang cả gia tài Nho Y học từ Hưng Yên vào lập nghiệp ở miền Nam (đất Chánh Phú Hòa tỉnh Bình Dương bây giờ), đã duy trì và phát triển vốn kiến thức đó cho đến ngày nay, và thầy thuốc Lê Hưng VKD là người truyền thừa một cách sâu sắc bền bỉ.

Bộ môn Linh Khu Thời Mệnh Lý (người Trung Hoa gọi là Tử vi đẩu số) đã được thời hậu Thiên Lương nghiên cứu và hiện đại hóa dựa vào “thuyết tương đối hẹp” của nhà bác học vĩ đại thế kỷ XX Albert Einstein và thay thế 128 sao (tinh đẩu) bằng 128 dữ kiện thông tin, để tìm mối liên hệ tương tác của chúng. Mỗi Linh Khu đồ là một phương trình toán học lịch sử của số phận người, là bản ngôn ngữ đặc biệt lãng mạn khoa học trong việc phát hiện những tín lý phi vật chất; nó thay thế cho thuật chiêm tinh bảo thủ thuyết thiên mệnh, bằng phương thức cơ bản là mở rộng hơn nữa trí tưởng tượng phong phú toán học (vốn là gốc rễ của trực giác tiên tri), để mà dự báo tương lai theo mục đích văn hóa tam lịch truyền thống (Âm lịch sự cố, Canh lịch sự biến, Luyện lịch sự tình).

Nhóm nghiên cứu Linh Khu Đồ của dòng họ Lê Lã (hậu Thiên Lương), gồm nhiều người làm việc trong các cơ quan (đặc biệt là trong y học), bản thân tác giả Lê Hưng VKD là thầy thuốc ưu tú hoạt động trong Hội Laser y học Bình Dương, đã được nhận giải thưởng Hải Thượng Lãn Ông của Bộ Y Tế năm 2013. Vinh dự cho tôi được thầy thuốc Lê Hưng VKD gửi cho đọc bản thảo cuốn “TỰ KỶ, CẢM THÔNG & YÊU THƯƠNG” và có nhã ý cho tôi viết lời giới thiệu cuốn sách với đông đảo bạn đọc xa gần. Mặc dù tự biết mình còn nhiều hạn chế, nhưng vì ngưỡng mộ nhóm tác giả hậu TL, tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc đôi điều:

Bằng kiến thức uyên bác, tiếp cận liên ngành, những chứng cứ phân tích khoa học, nhóm tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy bản chất của TỰ KỶ là biểu hiện của rối loạn tinh thần có đặc trưng từ cử chỉ - ngôn ngữ - hành vi không tương thích với thực tế ngoại cảnh; người bệnh hình như chỉ tập trung vào những ám thị chất chứa riêng tư. Do vậy khi Linh Khu Đồ của mỗi cá thể nếu tích lũy các thông tin dự báo sự tiềm ẩn cúa chứng TỰ KỶ, điều này giúp ích cho các cơ sở giáo dục - các bậc phụ huynh có thêm “cách phát hiện sớm”, để điều chỉnh kịp thời các rối loạn cảm xúc - hành vi - nhận thức của các cháu bị chứng TỰ KỶ. Theo tôi, ngày nay xã hội quá lo ngại về chứng TỰ KỶ, nhưng các kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu hậu Thiên Lương cho thấy trẻ em TỰ KỶ không hoàn toàn bị “VONG THÂN”, mà còn có những khả năng kiệt xuất, như trường hợp phân tích Linh Khu đồ của nhà bác học vĩ đại Albert Einstein (1879 - 1955) đã có một tuổi thơ không bình thường của trẻ tự kỷ. Báo chí ngày nay còn cho biết từ nay đến 2020: tập đoàn công nghệ phần mềm SAP của nước Đức dự tuyển 650 người bị tự kỷ, để đào tạo thành chuyên viên bảo đảm chất lượng phần mềm tin học, bởi vì theo họ: người mắc bệnh tự kỷ thường có trí thông minh khác biệt và tài năng toán học hơn hẳn người bình thường...

Tôi trân trọng giới thiệu với quý bạn đọc cuốn biên khảo “T k, cm thông & yêu thương” với niềm tin tưởng: các bạn sẽ khám phá nhiều điều thú vị trong tác phẩm này, cũng như sẽ đồng cảm với tác giả Lê Hưng VKD:

“...Tôi ngây ngất với trần gian kỳ diệu
Bởi không gian nhiều sắc tướng vô thường
Và hứng khởi chuỗi thời gian qui chiếu
Hàm ơn nhiều đối đãi của Âm Dương....”
(Trích thơ Lê Hưng VKD trong tuyển tập
Bốn Mùa Thương Nhớ - Nxb. Hội Nhà văn 2013).

Chúc thầy thuốc Lê Hưng VKD (với mái đầu tuy nhỏ nhắn + đôi mắt sắc bén dưới cặp kính lão, nhưng lại chứa một khối lượng tri thức khổng lồ và bầu nhiệt huyết sục sôi) luôn luôn khỏe mạnh, để còn cống hiến cho đời nhiều thành tựu khác, nhất là trong việc truyền thừa cho lớp người kế cận tiếp nối “văn hóa tam lịch” của dòng họ Lê Lã phố Hiến (Hưng Yên)!

P.Đ.D
(SDB12/03-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.