NGUYỄN ĐÌNH HỒNG
Tiếng súng của Nam Bộ - Sài Gòn đi đầu chống thực dân Pháp làm nức lòng cả nước, sôi sục căm thù bọn xâm lược.
"Cửu vị thần công" - Ảnh: huexuavanay.com
Lời kêu gọi của Bác Hồ và Trung ương Đảng hồi đó thật vang vọng núi sông "Kháng chiến toàn dân, toàn diện". Đêm 19 tháng 12 năm 1946 hợp đồng động tác với chiến trường, quân dân thành phố Huế nhất tề nổi dậy, chủ động tấn công, nổ súng vào các đồn lũy của giặc. Khẩu đại bác 75 ly của Pháp mà Huế ta giành lại được từ tay giặc Nhật, đêm đó, cũng phóng đạn nện lên đầu giặc theo kế sách gậy ông đập lưng ông. Nhưng rồi, nòng súng bị hỏng, phải cho kéo ra An Hòa phục hồi lại. Nghe vắng tiếng đại bác của ta, giặc Pháp hí hửng reo mừng, chúng bắn súng cối và bô-pho, nổ lung tung vào nhà cửa vườn tược của đồng bào.
Nhưng chỉ mấy hôm sau, giặc Pháp lại kinh hoàng hốt hoảng, chẳng hiểu mô tê gì, bom đạn đâu mà nổ ầm oàng vào đồn lũy của chúng lắm thế. Tiếng nổ to hơn, công phá nhiều hơn. Mãi về sau chúng mới biết, Huế ta đã dùng súng thần công từ đời Tôn Thất Thuyết còn lại, để phóng bom diệt chúng.
Bọn xâm lược xưa nay thường vậy, gần chết, nết chưa chừa. Việt Nam này, giặc đến nhà, đàn bà, trẻ già đều đánh, gậy tầm vông và súng thần công cũng đánh giặc nữa là... Nợ nước tình nhà, đâu chịu khoanh tay. Nghĩ vậy anh thanh niên Phan Quốc Sắc, người học trò vừa tốt nghiệp Trường Kỹ nghệ, đang cầm súng chiến đấu trong hàng ngũ Giải phóng quân, liền xin phép từ giã tiểu đoàn 10 đang đóng quân giữa khu vực Nam Giao với núi Ngự Bình, anh vòng về Vỹ Dạ - Đập Đá, băng qua Thành nội, vào tận dinh cơ Bảo Đại tìm đồng chí Hoàng Tường đang phụ trách binh công xưởng ở đó, để bàn bạc luận chứng dùng súng thần công phóng bom. Đồng chí Hoàng Tường là người am hiểu kỹ thuật hơn, đã từng bị giặc Pháp đày giam tận Tây Nguyên, Lao Bảo từ cao trào 31-45, nên rất tích cực hưởng ứng. Đêm khuya giá rét, bất chấp mưa đạn, đồng chí Hoàng Tường đã giúp anh Quốc Sắc mày mò đo đi tính lại thật chính xác quy cỡ từng loại bom ta đã giành được trong kho giặc Nhật, đo lại từng loại nòng súng thần công, tính toán thật chi ly từng công thức... chiều dài đoạn giây nổ chậm “Cor-đông-bik-pho", nối liền từ ngòi châm lửa vào "Đề-ton-na tơ", tính lại liều lượng thuốc nổ "Ni-tờ-rô-xen-luy-lô" độn vào nòng súng, tính quy cỡ những "cua-roa" xiết chặt thân bom, tính góc độ chênh giữa nòng súng với mặt đất và bệ phóng, tính lực chịu đựng sức dật lùi của nòng súng và tính bảo đảm an toàn khi phóng bom đi... sao cho mỗi quả bom, phóng ra rồi, phải bay đúng vòng cung, vượt qua sông Hương, rơi vào các toạ độ thật chính xác và phải nổ ngay khi mới rơi xuống đất để giặc trở tay không kịp. Bài toán hóc búa nhất lúc bấy giờ là lính Pháp và quân ta đóng xen kẽ bên nhau. Chỉ tính sai một ly, bom bay chệch một tý, là rơi vào đội hình của ta rất nguy hiểm, vì mặt trận Huế, lúc bấy giờ, giặc Pháp như ở giữa lòng chảo, bốn bề bị ta bao vây, chúng chỉ đóng quân ở giữa bờ Nam sông Hương và Bắc sông An Cựu, từ Cầu Ga, qua cầu Nam Giao, Bến Ngự, Phú Cam, Kho Rèn, vòng ra đến cầu Trường Tiền, có những đồn lũy của lính Pháp chỉ cách doanh trại quân ta một con đường vài chục mét, nó đóng ở trong Trường Nhà dòng Pel-Iơ-rin và trường Quốc Học Khải Định, ta lại ở Trường Nữ Đồng Khánh và Trường Kỹ nghệ, nó đóng ở "Sáp-phăng-giông", "Mô-rin-phơ-re" ta lại đóng ở "Đờ-cuốc-suy" và Trung bộ Phủ, tức Toà Khâm sứ cũ...
Tính toán xong xuôi, đồng chí Hoàng Tường nhờ anh Tửu là một công nhân lão luyện, cho binh xưởng tiện thử mấy chiếc "cua-roa", lắp xiết chặt vào quả bom, bỏ thử vào nòng súng thật khít khao, để không khí không lọt vào, bảo đảm cho sức ép và lực đẩy của liều lượng "Ni-tơ-rô-xen-luy-lô" đủ sức phóng bom đi đúng cung độ. Thực nghiệm công thức xong, anh Quốc Sắc lại chạy ra tìm Ban Quân giới, trước đây đóng ở An Đô (Hương Trà) và Long Thọ (Hương Thủy) nay đang di chuyển ra ở Quảng Điền, Phong Điền, mãi tận quê hương các đồng chí Nguyễn Chí Thanh, đồng chí Tố Hữu. Ban quân giới Trung đoàn giao thêm kế hoạch này cho các anh Nguyễn Tấn Thiệu, Phan Văn Phó và Sơn Hoàng. Hì hục mất một hôm, anh em đã kéo được khẩu thần công, đặt ngay trước mặt góc Tam Tòa, phường Thuận Thành, để phóng thử bom đi. Bom bay xa hơn 3 km, chui sâu xuống đất gần 1 mét (đương nhiên, ta đã tháo ngòi nổ "Đề-ton-na-tơ" trong bom và cho bom rơi thử xuống khu đất trống của vườn Canh Nông cũ). Thử vài lần thấy đúng, các anh mang luận chứng báo cáo lên cấp trên và được các đồng chí Hoàng Anh lúc ấy là Bí thư Tỉnh uỷ và Chủ tịch Tỉnh Thừa Thiên cùng đồng chí Hà Văn Lâu là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Cao Vân (101) đồng ý, thế là hàng loạt súng thần công, cùng phóng bom đi một lúc, từng đợt, từng đợt, rơi đúng mục tiêu, tiếng nổ vang rền, giặc Pháp kinh hồn khiếp vía, hoang mang tột độ, còn bên ta, vào những đêm khuya cuối năm 1946, giữa cái Tết Bính Tuất và Xuân Đinh Hợi, nhìn trên bầu trời sông Hương, những loạt bom bay, đan chéo nhau tạo nên nhiều tia chớp lấp lánh như ánh sao băng, phấn khởi reo hò, cầm những chiếc bánh tày, những đòn bánh tét của các cô gái áo tím xứ Huế đem tặng tận nơi, mà hả lòng hả dạ, bom bay lại tiếp tục phóng đi nhiều nơi, diệt giặc nhiều hơn.
Hoà lẫn với tiếng nổ của bom bay là súng liên thanh của anh em bộ đội Giải phóng quân, Vệ Quốc quân, là gươm là mác của cảm tử quân, là rơm xông với ớt cay của anh chị em Tự vệ, và với nhiều vũ khí của Quân giới ta tự chế tạo ra, tất cả xông vào sào huyệt giặc, bắt được nhiều tù binh... Với niềm tin kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi. Mặt trận Huế lúc bấy giờ, quân ta đang ở thế chủ động tiến công, ép giặc vào thế tử địa, co cụm, chờ ngày đầu hàng.
Từ dáo mác, lựu đạn, Huế đã trưởng thành trong khói lửa.
"Từ Huế ra đi làm chiến sĩ
Đánh tan Pháp, Mỹ nay trở về...
Nhìn sông Hương, núi Ngự hùng vĩ...
Thần công Huế đó... vẻ uy nghi"
Bao nhiêu súng thần công còn ở quanh Thành phố Huế, đặc biệt còn 9 khẩu to như vua chiến trường, đang xếp thành 2 dãy ở gần cột cờ Ngọ Môn, bên này 5 khẩu, bên kia 4 (vì giặc Pháp đã cướp mất 1 khẩu mang về nước). Nòng súng nào cũng vươn lên với tư thế oai hùng, kiêu hãnh... cũng như những chàng trai xứ Huế mới năm nào đang độ tuổi mười tám, đôi mươi, kết bạn với súng thần công phóng bom diệt giặc, nay súng thần công chưa chịu vào bảo tàng, cũng như những chàng trai đó... Hoàng Tường, Phan Quốc Sắc, Nguyễn Tấn Thiệu, Phan Văn Phó... tóc đã bạc, mà chí còn xanh, họ đang say sưa với nhiệm vụ xây dựng quê hương, đất nước mình.
N.Đ.H
(TCSH52/11&12-1992)
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Cuối năm 1961, tôi rời Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao về làm biên tập viên chương trình Tiếng thơ Đài Tiếng nói Việt Nam. Chương trình này nằm trong Phòng Văn học do nhà văn Trọng Hứa làm Trưởng phòng.
KIMO
Mười Cents, một đồng xu nhỏ nhất, mỏng nhất được gọi là “dime” và đồng xu nầy được đúc với chất liệu 90 phần trăm bạc và 10 phần trăm đồng như đồng xu năm cents và 25 cents nhưng lại khác với đồng xu một cent.
HƯỚNG TỚI 70 NĂM THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
TÔ NHUẬN VỸ
HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
NGUYỄN KHẮC PHÊ
KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ
NGÔ KHA
LTS: Dưới đây là một ghi chép của cố nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Kha về những ngày đầu đoàn quân giải phóng về thành Huế dịp 26/3/1975. Rất ngắn gọn, song đoạn ghi chép đã gợi lại cho chúng ta không khí sôi nổi, nô nức những ngày đầu.
Lời nói đầu: Mỗi khi về nhà ở Quỳnh Mai, tôi luôn hình dung thấy Cha tôi đang ngồi đâu đó quanh bàn làm việc của mình. Trong một lần về nhà gần đây, sau khi thắp hương cho Cha, chờ hương tàn bèn mang máy đánh chữ, là vật hết sức gần gũi đã gắn bó với Cha tôi cho tới khi mất, để lau chùi, làm vệ sinh.
Những năm 1973-1976, đến Paris tôi bắt đầu công việc sinh viên, vừa làm vừa học là ký tên và đánh số giùm tranh litho cho Họa sĩ Lê Bá Đảng.
SƠN TÙNG
Một ngày giáp Tết Canh Dần - tháng 2/1950, gặp dịp đi qua làng Sen, tôi ghé vào thăm nơi đã lưu lại những kỷ niệm tuổi thơ của Người.
L.T.S: Vương Đình Quang nguyên là thư ký tòa soạn báo "Tiếng Dân" do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ biên, vừa là thư ký riêng của nhà yêu nước Phan Bội Châu, chuyên giúp Phan Bội Châu hoàn chỉnh những văn bản tiếng Việt trong mười lăm năm cuối đời sống và sáng tác tại Huế. Bài này trích từ "Hồi ký về cụ Phan và cụ Huỳnh" do chính tác giả viết tại quê hương Nam Đàn Nghệ Tĩnh khi tác giả vừa tròn 80 tuổi (1987).
NGUYỄN NGUYÊN
Tháng 6-1966, ở Sài Gòn, giữa cái rừng báo chí mấy chục tờ báo hằng ngày, báo tháng, báo tuần, bỗng mọc thêm một từ bán nguyệt san: Tin Văn.
Cứ vào những ngày cuối năm, khi làm báo tết, trong câu chuyện cà phê sáng, làng báo Sài Gòn hay nhắc đến họa sĩ Choé, tác giả những bức tranh biếm - hí họa từng không thể thiếu trên khắp các mặt báo. Có thể nói, cùng với nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Bùi Giáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, họa sĩ Ớt - Huỳnh Bá Thành, danh ca Út Trà Ôn, danh hài Văn Hường,… họa sĩ tuổi Mùi - Choé là một trong những “quái kiệt” của Sài Gòn.
(Lược thuật những hoạt động nhân kỷ niệm 5 năm Sông Hương)
(Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ - Nguyên Tổng biên tập tạp chí Sông Hương trong lễ kỷ niệm 5 năm)
(SHO). Huế đầu đông. Mưa lâm thâm,dai dẳng. Mưa kéo theo các cơn lạnh se lòng. Cái lạnh không đậm đà như miền Bắc không đột ngột như miền Nam, nó âm thầm âm thầm đủ để làm xao xuyến nổi lòng người xa quê... Ngồi một mình trong phòng trọ, con chợt nhớ, một mùa mưa, xa rồi...
(SHO). Mùa mưa cứ thế đến, những nỗi nhớ trong tôi lại từng cái từng cái ùa về, thổi qua và tôi chợt nhận ra trong lúc ngây ngốc tôi đã bỏ quên nhiều thứ như vây; bỏ quên những người thân yêu trong nỗi nhớ của tôi, ở trong kỉ niệm đã qua và giờ tôi nhớ ra cảm giác hạnh phúc, vui vẻ khi ở bên họ, để từ đó tôi quý trọng hơn nữa những giây phút bên cạnh những người mà tôi yêu thương.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Sau một thời gian bị bệnh hiểm nghèo, ca sĩ Hà Thanh đã qua đời vào lúc 19 giờ 30 ngày 1 tháng 1 năm 2014 (giờ Boston) tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ.
ĐẶNG VĂN NGỮ
Hồi ký
Cha tôi lúc còn nhỏ tự học chữ nho có tiếng là giỏi, nhưng đến tuổi đi thi thì thực dân Pháp đã bãi bỏ các kỳ thi chữ nho.
TÔ NHUẬN VỸ
Lớp sinh viên chúng tôi tốt nghiệp Khoa Văn - Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, đúng vào thời điểm Mỹ đánh phá miền Bắc và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kêu gọi con em miền Nam đang ở miền Bắc hãy trở về chiến đấu cho quê hương.
Giải phóng quân Huế với phong trào Nam tiến
PHẠM HỮU THU
Sau ba năm đi giang hồ Trung Quốc. Nguyễn Du trở về, ở tại Thăng Long từ cuối năm 1790 cho đến năm 1794. Đó là ba năm «Chữ tình chốc đã ba năm vẹn», lưu lại trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương.