LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
(Đọc tập thơ Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm, Nxb Văn học, 2012)
Thơ, ngay trong bản thể chính nó đã là một thế giới của những cảm thức dung tụ, thoát hiện bằng một hệ tầng hình tượng ngôn ngữ. Người thơ hòa vào biển từ bao la để thiết lập nên thế giới theo quán giải của riêng mình. Điều ảo diệu của thơ lắng mặn trong tàng thức của chúng ta, và khi mạch nguồn được khơi mở, những ám gợi sẽ tung vỡ để tạo nên những hồn thơ hoài hoải kiếp người. Chúng ta đọc được những tâm cảm đó qua ngôn ngữ thơ Lê Huỳnh Lâm, về một “cõi riêng” mà anh đang “phát quang” từ rừng chữ thăm thẳm đang không ngừng nhảy múa.
Từ tập thơ đầu tay Thi ca mùa ngái ngủ với ý hướng “Muốn vượt qua những lối mòn đang đẩy nghệ thuật quẩn quanh trong khu rừng của sự mỹ miều nhưng trống rỗng” (Phạm Tấn Hầu), nay anh tiếp tục “tái xuất” với những dòng chữ ám dụ của Mật ngôn để chứng khảm bao điều biến hiện, đầy vẻ huyễn hoặc của thực tại.
Những bài thơ đa phần được dẫn dụ từ thái độ sống và cách nhìn nhận đến từ những bế tắc, hoài nghi và thắc thỏm. Hàng loạt biểu tượng kiến thiết trên cái nền ấy, trong một dung môi thời gian và không gian chảy xuyết ẩn ức. Thơ Lê Huỳnh Lâm ít nhiều mang dáng dấp tính chất Tiểu tự sự (Petit Narrative) của chủ nghĩa Hậu hiện đại. Những nhận thức về thế giới hiện tồn qua những ảnh tượng hoặc bế thảm hoặc khởi sắc trong bi lụy đang trên tiến trình bất định, gợi mở một khả năng chân lí lẻ loi, nhưng đâu đó vẫn là trạng thái đầy hoài nghi, luôn đứt gãy, dị biệt và lạc lõng của lí trí.
Với dòng chảy đó, đầu tiên, Lê Huỳnh Lâm đã phát hiện ra những bế tắc không hợp lí của con người và của chính cái bản ngã mình vốn đã được “mặc định” theo ý hướng thiêng liêng. Sự bế tắc đến từ những biểu tượng từ con người, con vật, cây cỏ mà rộng lớn nhất là đến từ sự thâm cùng của vũ trụ khắc khoải: Tiếng đêm/ Xé rách màn trinh mặt trời/ Loang lổ màu kinh/ Bừng cháy (Tiếng đêm).
Những xung đột của thời khắc và không gian được thấu hiện, là đêm, là mặt trời, là tối, là sáng, luôn giẫm đạp lên nhau. Một vụ big bang được thấu hiện. Ngay cả vũ trụ đã chứa đựng những điều hằng diễn tưởng chừng là yên ổn hóa ra bất ổn. Từ trong bóng tối tiếng đêm kinh hoàng, nơi dung chứa tội lỗi, điều bất thiện luôn sẵn sàng đánh đổ những chân giá trị và dám Xé rách màn trinh mặt trời.
Mặt trời ấy, nếu là chân lí, ắt hẳn là chân lí tuyệt đối được thức nhận vĩnh cửu từ thuở hồng hoang. Và cũng chính chân lí ấy hiện phải đối mặt: Nước vẫn bay trên đôi cánh mặt trời/ Mặt trời nở hoa ngập máu (Trên con đường sẽ không còn dấu chân anh).
Không còn là diễm ảnh của thứ ánh sáng kì vĩ, mặt trời dường như đang đi vào quỹ đạo sáng không tự chủ Mặt trời nở hoa ngập máu. Nếu có thể vẽ một bức tranh, đây có thể là một tác phẩm hội họa tuyệt vời. Sự phóng tưởng đã đẩy người thơ lại gần với chân lí - mặt trời để trực nhận khoảnh khắc vi tế ấy.
Vũ trụ đã kinh qua vụ big bang lớn, trong khi đó con người - tiểu vũ trụ đang đối mặt với vụ big bang bế tắc. Khi bàn đến con người, trung tâm của thế giới thơ, Lê Huỳnh Lâm biên khảo ra hội chứng vô cảm của nhân tâm con người như cái hiện tượng:
Mảng xám trên chiếc băng ca ngả màu
Loang lổ vệt huyết
Và sự điềm nhiên trên những đôi mắt.
(Buổi sáng trên sông Hương)
Một buổi sáng không hề êm đềm trên dòng sông thi ca xứ Huế. Người thơ đã chộp lại hình ảnh quá đỗi bình thường của những con người quá đỗi vô cảm ngay chính nỗi đau đồng loại. Câu hỏi lớn về đạo làm người thất lỡ lương tri, tình thương bị phân giải thành thứ vật chất thô cứng, vô hồn.
Tiếp đó, trong cái thế giới người bế tắc mà Lê Huỳnh Lâm vẽ ra, không ít những hình ảnh huyễn hoặc, bí nhiệm đã hiện lên: “Những viên gạch đậy che bí tích/ Loang lổ bước đèn vàng/ Bóng người đàn ông làm tình chiếc bóng” (Đêm rên siết trong vòng tay mười hai ngón).
Lại một vết xước được cậy lên từ đêm. Một đêm tối được đặt kì dị như chính cái tên bài thơ: Đêm rên siết trong vòng tay mười hai ngón. Sự nhầm lẫn của con số hay chính là cái sự thực khó chấp nhận của điều bất bình thường vòng tay mười hai ngón đã cảnh báo về một ảnh tượng còn “khó chấp nhận” hơn: “Bóng người đàn ông làm tình chiếc bóng”. Từ đêm, những đam mê cô độc đã cháy, đã diễn đi những ý niệm phân tâm của cái gọi là hành vi sai lạc (Freud). Không, đó là bế tắc và hẳn là bế tắc của một sinh linh tha hóa đi bản thể của chính mình.
Và cũng chính trong tập Mật ngôn này, Lê Huỳnh Lâm khi bàn đến sự bế tắc, thảm cảnh của cõi người đã phần nào bật mí cái nguyên do sâu kín:
trên những bộ mặt vắng đức tin
triệu con mắt vô tình/ triệu cái miệng câm nín
thèm nghe kinh cầu an
(Bình minh đen)
Chối bỏ đức tin đồng nghĩa với chối bỏ tâm linh, thế giới huyền nhiệm mà nhãn giới con người khó có thể nắm bắt. Một loạt trạng thái vắng đức tin - vô tình - câm nín của con người vốn chỉ thấy mình, thỏa mãn thực tại trống rỗng tình người để rồi ngày mai đón chờ một Bình minh đen khó tránh. Đó hẳn là dụ ngôn bị phủ lấp bởi lớp vỏ vật chất phù hoa làm con người quên đi viên ngọc cần phải rèn giũa để thắp sáng phần tâm nhân bản luôn có sẵn trong mỗi cá thể.
Sự khủng hoảng đã lên đến tột đỉnh của sự bế tắc khốn cùng của kiếp người:
Người thiếu phụ rao bán giấc mơ
Giữa mùa hạ muộn màng
(Một ngày và một đêm)
Đến giấc mơ cũng đem đi rao bán, có lẽ chẳng còn gì có giá trị hơn những ảo ảnh chiêm bao nơi còn sót lại những gì loài người khao khát Giữa mùa hạ muộn màng. Thi cảnh mà Lê Huỳnh Lâm vẽ ra trong câu thơ chất ngất hình tượng này, một lần nữa có thể gọi là một tác phẩm hội họa đầy đủ bố cục, màu sắc, hình tượng, ý tưởng tròn trĩnh...
Vũ trụ và con người - tiểu vũ trụ trong thế giới thơ của Lê Huỳnh Lâm đương đối mặt với bế tắc, những mối nguy rình rập. Những đổ vỡ đã được xác nhận, mảng chìm, mảng nổi, trong và ngoài, lớn và bé. Ngay như loài sinh vật tượng trưng cho sự phóng tưởng niềm hân hoan cao vút như giống chim cũng phải đối mặt: “Những con chim trú mình bật khóc/ Phá sản sự thiêng liêng” (Thời khắc Nam Giao).
Mượn chim luận người. Thời khắc ấy đã đến, thời khắc thiêng liêng đã bị phá sản qua sự tế cúng hình thức. Bấy nhiêu tín điều thô ráp đã phơi bày, bấy nhiêu hờn khổ kinh trải rất vi tế. Người thơ đã đắm mình, thật sự chìm sâu giữa biển khơi bất ổn. Chúng ta còn bắt gặp cả những thi ảnh sầu rượi được nhận biết từ:
Hàng cây ưu tư nở những trái buồn
Gắn vào nét mặt ruộng đồng
Những dòng xanh hoang lạnh
(Tiếng gọi của đất)
Ngay cả cây cối cũng bị phơi nhiễm những trăn trở toát ra từ nhân thế. Để bói ra những trái buồn như một hệ quả bất ổn triền miền. Mượn cảnh nói người, mô phỏng tâm trạng rối bời hoang lạnh như chính dòng sông cô độc. Toàn cảnh vật phủ lên thứ dung ảnh ảm đạm.
Một ảnh tượng của sự thanh khiết: Hoa - dung nhan cuộc sống đã được người thơ kiếm tìm, thay vì là niềm vui được chiêm ngưỡng cái đẹp lại phủ lên một ám ảnh: Hoa nở tràn nấm mồ/ Phủ kín mặt đất tật nguyền (Hư vô).
Những nỗi buồn vọng lại từ ngay chính phút huy hoàng, thiêng liêng của lịch sử khi tất cả được bạch định bằng sự tri ân, hồi cố. Chúng ta đã làm nên lịch sử và trả giá cho lịch sử là nấm mồ, là nghĩa trang. Để rồi dùng hoa để quên đi tất cả bằng màu sắc êm dịu, lãng quên trong nỗi buồn thiên thu tật nguyền.
Nếu chỉ diễn đạt thế giới chỉ là bế tắc, mãi bế tắc không có lối thoát ắt hẳn không một người thơ nào muốn vậy. Thế giới Lê Huỳnh Lâm vẫn có những ánh đuốc, những bông hoa được hoài sinh từ đổ nát. Đầu tiên, đức tin được chọn lựa để khỏa lấp cái hố hèn mọn đang nới rộng: Chỉ còn tin vào những gốc cây ven đường/ Ai đó đã dựng lên những mái nhà linh hồn (Buổi sáng trên sông Hương).
Khi mọi tín ngưỡng đều di trú hình thức, con người đã tìm lại những chốn thiêng gần gũi. Những am thờ dưới những tán cây linh thiêng, dễ gặp bất cứ nơi đâu. Đó chính là những mái nhà linh hồn xứng đáng, là nơi trú xứ của bao điều tâm linh.
Con người cũng đang quay trở về, để không đánh rơi mình trên bước đường nhân thế gian truân:
em làm dấu thánh trên cánh đồng
linh tượng buồn trăm năm nở loài hoa dại (†).
Ngay cả khi thời gian chết đi, sự hoài sinh vẫn là khát khao thơm ngát: Khi tất cả những chiếc đồng hồ ngừng lại/ Anh hái đóa thời gian thả vào mạch máu/ Hai bờ ngực trái nở hoa (Khi tất cả những chiếc đồng hồ ngừng lại).
Đoạn thơ này khiến chúng ta nhớ đến một câu nói bất hủ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa”. Ánh sáng luôn ở cuối còn đường, hãy hi vọng, hãy đặt bông hoa lên mình để Hai bờ ngực trái nở hoa như Lê Huỳnh Lâm mường tượng. Giờ đây, hoa lại nở rộ bằng chính linh hồn nó để thanh lọc:
Những ươn hèn bùng lên thành ngọn sóng/ Cánh đồng tội ác nở bạt ngàn đóa sen (Ký tượng buồn).
Và sen thánh thiện đã nở trên Cánh đồng tội ác để làm lu mờ tất cả, hãm đi cái mùi tanh nhơ của tội lỗi. Chân - thiện - mỹ được xác lập, được ngự trị. Đó là ngọn đuốc dẫn đường, là mái nhà chở che, là âm thanh hiền hậu: Chỉ còn tiếng thét triệu năm vọng lại/ Hóa lời ru trên đôi môi mẹ hiền (Nơi tận cùng).
Từ tiếng thét chuyển biến qua lời ru tất yếu là một sự tiến hóa tuyệt vời của con người, sản phẩm từ thời gian. Sự hoài sinh hiện hữu bởi đóa hoa thiện nhẫn, là lời ru hiền dịu, ngọt ngào của mẹ mãi thơm ngát giữa biển đời lao lung. Cuối cùng, Lương tri được đánh thức rất tự nhiên như chính điều “bất khả tư nghị” đồng hành với con người:
Ánh sáng không phát ra từ mặt trời
Ánh sáng không phát ra từ những cái đầu đen tối
Ánh sáng trên những bàn tay/ Biết chìa ra, biết ôm vào
(Trên con đường sẽ không còn dấu chân anh)
Mọi sự bất hợp lí, mọi sự lung lạc phút chốc được sắp xếp theo một trật tự, chỉnh chu. Người thơ đã chọn ra được ánh sáng xuất phát từ chân lí:
Ánh sáng trên những bàn tay
Biết chìa ra, biết ôm vào.
Đó là thứ ánh sáng bất diệt của lòng nhân ái mà con người được tạo hóa gieo mầm ban sơ: muôn đời gìn giữ, muôn đời tinh tấn, hẳn vậy.
Từ bước chân khẽ khàng của Thi ca mùa ngái ngủ khắc đậm dấu ấn tinh khôi và ẩn giấu lẽ chân nhiên đầy ám mị, Mật ngôn có phần nhích gót ra ngoài biên độ mỹ miều, để tái tập trung “một cuộc đại phẫu” suốt từ vũ trụ cao rộng, đến con người… và cả bông hoa vi mô. Biên độ được nới rộng, thơ trở thành mạch nguồn ăm ắp nước nuôi dưỡng cánh đồng lương tri đang ngày càng khô kiệt. Giá như phù sa được cô đặc, dòng sông sẽ không phải vật mình vì lưu vực rộng mở để ban phát sự phì nhiêu.
Những dòng Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm là tiếng nói nội tâm văng vẳng từ thẳm sâu tiềm thức. Một thế giới vừa rối ren, cùng quẫn lại vừa huyễn hoặc, si mê lạ thường. Mọi vỉa tầng có khi đang suy tàn, tăm tối nhưng lại luôn nung náu một sức sống mãnh liệt sẵn sàng khỏa lấp thứ bóng tối vô minh đáng nguyền rủa. Mặt trời sẽ vẫn nở hoa soi rọi chân lí và hoa sẽ luôn tỏa ánh hương diệu vợi thanh tẩy mọi hoen rỉ của thế giới người tạm bợ. Khi ấy, thơ là dạng linh hồn tinh khiết vỗ cánh bay cao.
Lập hạ - 2012
L.V.T.G
(SH282/08-12)
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)