Sông Hương dòng sông huyền thoại

11:09 10/09/2008
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

Vua Nghiêu đã mô phỏng theo hình dạng chữ khoa đẩu trên lưng rùa thần để sáng tạo nên lịch rùa (theo sách Cương Mục Tiền Biên của Kim L‎‎ý Thường và Thống Chí của Trịnh Tiều). Có lẽ đây là loại lịch sớm nhất của loài người. Đến năm Tân Mão đời vua Thành Vương nhà Chu (1063-1026 trước Công nguyên), x Việt Thường lại ba lần sai sứ đến cống chim trĩ trắng (theo Sử Ký của Tư Mã Thiên). Xứ Việt Thường nằm ở nơi nào hiện nay cũng mơ hồ như huyền sử, nhưng Đại Nam Nhất Thống Chí của triều Nguyễn vẫn khẳng định đất Kinh sư (nay là Thừa Thiên Huế) “là đất Việt Thường thị”(1). Không rõ vào lúc đó rùa thần có bơi lội trên dòng sông Hương hay không, nhưng loài chim trĩ thì đến nay vẫn còn quyến luyến quanh các khu rừng đầu nguồn sông Hương.
Trên vùng đất nầy, về phía thượng lưu sông Hương, nhóm cư dân Tà Ôi vẫn còn lưu giữ truyền thuyết về sự ra đời của con người khá ly kỳ. Chuyện kể rằng từ ngàn xưa, lúc trời đất bị thảm họa, loài vật chỉ còn lại hai “cô cậu” chó đực và chó cái, con người lại chưa có mặt. Vào lúc trời hạn hán, sông suối cạn kiệt, đôi chó duy nhất còn lại trên mặt đất đã vượt qua nhiều núi đồi hiểm trở mới tìm được nguồn nư
c. Chó cái đang bụng mang dạ chửa phải lê mình đến bên bờ suối. Đúng lúc chúi mình xuống uống nước cũng là lúc chó cái chuyển dạ, sinh ra một quả bầu dài. Một nửa quả bầu nằm dưới nước, nửa còn lại nằm vắt trên bờ. Qua nhiều tháng liền, nửa quả bầu trên bờ bị nắng hạn nung nóng đen thẫm, nửa ngâm dưới nước trở nên trắng hơn. Khi mùa xuân đến thì quả bầu vỡ ra và những con người đầu tiên từ lòng quả bầu vươn dậy. Số người nằm ở nửa quả bầu trên bờ có nước da ngăm đen, những người nằm ở nửa quả bầu dưới nước có làn da trắng hơn. Số người có làn da trắng hơn xuôi theo dòng sông về đồng bằng sinh sống và trở thành người Kinh. Những người có làn da ngăm đen đi ngược về đầu nguồn tìm rừng phát rẫy, trở thành người Tà Ôi bây giờ(2). Câu chuyện cổ kể về sự tích Kinh-Thượng được sinh ra cùng một quả bầu ở Trị Thiên Huế phảng phất dấu ấn tương đồng với truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở thành trăm con, 50 con theo mẹ lên rừng, 50 con theo cha xuống biển của người Việt. Huyền thoại từ đầu nguồn sông Hương đến nay vẫn được người Tà Ôi lưu giữ dưới hình thức chuyện kể An xoar trong sinh hoạt cộng đồng của vel, rẫy.
Cũng từ dòng sông nầy, xuôi về phía hạ lưu, tại làng Khuất Phố trước đây, nay là làng Hải Cát, huyện Hương Trà, những cư dân Chăm đã dựng đền thờ thần Mẹ xứ sở Po Yan Inư Nagar tại núi Ngọc Trản. Hình ảnh người mẹ sáng tạo thế giới của dân tộc Chăm tiếp tục được người Việt, nhất là các đời vua triều Nguyễn tôn thờ dưới hình thức chuyển hóa thành nữ thần Việt: Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi. Đặc biệt dưới thời Đồng Khánh, vừa lên ngôi nhà vua đã cho tôn tạo, đổi tên đền Ngọc Trản thành điện Huệ . Đại Nam Thực Lục đã ghi: “Vua khi còn ẩn náu thường chơi xem núi ở đấy, mỗi khi đến cầu khẩn, phần nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua phê bảo rằng: “Đền Ngọc Trản thực sự là núi Tiên nữ linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ hình thế như con sư tử uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền ấy nhờ được linh khí đắc nhất, cứu người độ đời, giúp cho phúc lộc hàng muôn, giúp dân giữ nước. Vậy cho đổi đền ấy làm điện Huệ , để biểu hiện ơn nước một phần trong muôn phần”(3).
Tương tự như đền thờ thần Mẹ xứ sở của người Chăm trở thành Tiên nữ linh sơn bên bờ sông Hương, dọc theo dòng sông nầy, những hình tượng Chăm bằng đá lạ lại được người Việt tôn thờ thành những nữ thần linh thiêng, đi kèm với huyền thoại dân gian ly kỳ. Tại làng Thanh Phước huyện Hương Trà, Đại Nam Nhất Thống Chí đã cho biết: “Tương truyền, tr
ước
có một người chài bủa lưới ở sông. Khi kéo lưới lên thấy nặng, bèn lặn xuống nước xem biết là có viên đá vướng lưới, bèn dời đi khúc sông khác. Đến đêm, mộng thấy một bà già bảo rằng: “Ta đây là thần, nếu đem được ta lên bờ, ta sẽ phù hộ”. Ngày hôm sau, người chài họp những người đồng bọn lặn xuống sông khiêng đá lên bờ,... đem để ở chỗ sạch sẽ rồi dựng đền tranh để thờ. Từ đấy tỏ ra linh ứng. Hồi đầu bản triều phong là “Kỳ Thạch phu nhân chi thần”(4). Ngôi đền Kỳ Thạch phu nhân với bức phù điêu Civa múa đến nay vẫn còn được người dân làng Thanh Phước gìn giữ, tế lễ hàng năm.
Ở tận cuối nguồn sông Hương, bên bãi Bát Thát gần cửa biển Thuận An, một tảng đá thiêng có hình tượng như người đàn bà có thai đã được người dân lập đền thờ phụng với danh hiệu Thai Dương phu nhân (bà Dàng có thai). Danh hiệu Thai Dương đã trở thành tên của làng Thai Dương. Tương tự như Kỳ Thạch phu nhân, Đại Nam Nhất Thống Chí cũng cho biết: “Tương truyền trước có người dân trong xã tên là Bố, đánh cá ở cửa biển, một hôm mưa gió tối tăm, đến nửa đêm mưa tạnh trời quang, Bố thấy cạnh bờ có viên đá kỳ dị, bèn v xoa, rồi ngủ đi, chợt mộng thấy một người đàn bà nhan sắc đẹp đẽ nói: “Ta đây là Thai Dương phu nhân, mi là người phàm, sao dám nhờn như thế? Phải đi ngay”. Bố giật mình tỉnh giấc biết là đá thần, liền khấn ngay rằng: “Nếu đá có thiêng, xin phù hộ cho tôi đánh cá được”. Từ đấy mỗi ngày đánh cá được càng nhiều, bèn dựng đền tranh ở bến sông để thờ viên đá... Từ đấy lừng lẫy anh linh. Hồi đầu bản triều cầu gió thường được linh ứng, bèn sửa làm đền miếu, có lệ quốc tế”(5). Tục thờ cúng Bà Dàng có thai còn gắn liền với câu chuyện dân gian bi thảm về cuộc tình duyên oan nghiệt của đôi trai gái người Chăm, gốc gác là anh em ruột, do lưu lạc từ nhỏ, lớn lên gặp nhau rồi nên duyên chồng vợ. Lúc người vợ mang thai, tình cờ người chồng phát hiện vợ mình chính là em gái nên lặng lẽ bỏ đi. Người vợ ngày đêm mong ngóng chồng đến hóa đá. Tập tục thờ cúng Bà Dàng cuối năm âm lịch ở Thai Dương đã đi vào tục ngữ xứ Huế, mô tả đầy đủ trình tự bốn ngày chăm
sóc, tắm rửa, trang sức và tế lễ tượng thần:
Hai mươi làm tốt
Hai mốt xỏ tai
Hai hai đeo hoa
Hai ba tế Dàng.
Và cũng bên dòng sông Hương, những huyền thoại thuần Việt lại tiếp tục nẩy sinh. Vào năm 1696, khi Hòa thượng Thạch Liêm Thích Đại Sán đến Thuận Hóa giúp chúa Nguyễn Phúc Chu, nhân làm hai bài thơ về chùa Thiên Mụ cũng đã nhắc đến:
Trích tiên chuyện cũ truyền Thiên Mụ
 Hồn mộng mơ màng trở lại đây
(6).
Câu chuyện tiên nữ bị đày (trích tiên) ở chùa Thiên Mụ đã được Nguyễn Khoa Chiêm kể lại trong bộ Nam Triều Công Nghiệp Chí viết năm 1719: “Một hôm chúa nhân khi nhàn hạ đi du ngoạn các nơi núi non sông biển, chẳng đâu không khắp. Khi đến xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một gò đồi cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ. Đoan vương Nguyễn Hoàng trong bụng lấy làm ưa thích, bèn trèo lên đồi cao ngắm nhìn khắp xung quanh, chợt thấy một đoạn hào đào cắt ngang dưới chân núi. Nguyễn H
oàng thầm nghĩ lấy làm tiếc, chưa biết nguyên do ra sao. Sau đó Đoan vương tìm người địa phương hỏi thăm ngọn đồi kia tên gọi là gì. Người địa phương thưa rằng:
- Chúng tôi là dân mọn, chỉ nghe lời truyền của các cụ ngày xưa bảo rằng: Núi nầy rất linh thiêng, khoảng đời nhà Đường có viên đại tướng tên là Cao Biền từng đi khắp nơi núi non sông biển nước ta xem những nơi nào có vượng khí linh thiêng thì tìm cách cắt yểm đi, ý là muốn cướp đoạt nước Nam ta. Cao Biền thấy trên núi nầy có khí thiêng bèn đào phía sau chân để cắt mạch đi khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm ấy bỗng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ, nhưng mày tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ quần xanh ngồi dưới chân núi kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều, thì nên lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi nầy để phúc dân giúp nước, tất không có gì phải lo”. Người đàn bà ấy nói xong liền biến mất. Dân trong vùng ghi nhớ lấy hình dáng bà ấy, đặt tên là núi Thiên Mụ. Ấy là sự tích người xưa truyền lại như thế, đúng sai ra sao, bọn dân chúng tôi không biết rõ, mong tôn ông minh xét.
Nguyễn Hoàng nghe nói cả mừng bảo rằng:
- Ấy là bà lão bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để nên nghiệp lớn.
Nói đoạn, sai người cất dựng chùa Phật, viết biển đề chữ “Thiên Mụ tự”. Từ đó dân chúng tới cầu khẩn đều thấy linh thiêng ứng nghiệm”(7).

Khởi đầu từ những huyền thoại về rùa thần và chim trĩ trắng, về quả bầu sản sinh loài người ở vùng đầu nguồn sông Hương, những huyền thoại gắn với dòng sông nầy về sau lại mang hình tượng của những vị nữ thần: Từ thần Mẹ xứ sở Po Yan Inư Nagar – Thiên Y A Na đến Kỳ Thạch phu nhân, Thai Dương phu nhân và bà tiên Thiên Mụ mày tóc trắng phơ, vận áo đỏ quần xanh trên đồi Hà Khê đều mang đậm yếu tính nữ, yếu tính của dòng sông Hương. Đến thời hiện đại, trên dòng sông thơ mộng nầy, một huyền thoại mới đầy chất thơ lại xuất hiện tiếp. Huyền thoại mới không còn phảng phất phong vị truyền thuyết ly kỳ, huyền bí nhưng vẫn rất huyễn hoặc, thu hút lòng ngưỡng mộ của nhiều người Huế và du khách: Huyền thoại trường Đồng Khánh.
Không rõ từ những ngày đầu mới thành lập năm 1917, ngôi trường nữ bên dòng sông Hương quy tụ những tiểu thư đài các một thời đã tạo nên những ấn tượng gì ở xứ kinh kỳ, nhưng theo dần với thời gian, ngôi trường nữ sinh Đồng Khánh với những chiếc nón nghiêng, những tà áo dài rợp hai bờ sông, rợp cả con đò ngang Thừa Phủ và cầu Trường Tiền đã là một thế giới kỳ lạ của riêng Huế: dịu dàng, kín đáo, đài các, mơ hồ và rất huyễn hoặc, huyễn hoặc như một huyền thoại thu hút nhiều chàng trai xứ Huế. Ngày nay ngôi trường đã thay tên gọi. Thế giới độc đáo chỉ riêng có của nữ sinh Huế đã bị phá vỡ bởi những khuôn mặt của học sinh nam, sinh hoạt học đường cũng không còn những nét đầy nữ tính công-dung-ngôn-hạnh. Con đò Thừa Phủ một thời cũng mất bóng. Tiếng guốc của nữ sinh không còn khua vang trên các nhịp cầu Trường Tiền. Chất thơ của dòng sông xem chừng cũng đang bị nhiều áp lực đe dọa. Ngôi trường Đồng Khánh thuở nào nay đã trở thành một huyền thoại, chỉ còn đọng lại trong k‎‎ý ức của lớp người lớn tuổi và chuyện kể về Huế một thời. Biết đến bao giờ dòng sông Hương lại xuất hiện thêm một huyền thoại mới.
Ngày ấy chắc cũng mơ hồ như một huyền thoại.
T.T.C
(nguồn: TCSH số 229 - 03 - 2008)

 

-----------------------------
(1) Quốc Sử quán triều Nguyễn – Đại Nhất Thống Chí. Bản dịch Phạm Trọng Điềm. T.1. Thuận Hóa. 1997. Tr. 13.
(2) Trần Nguyễn Khánh Phong – Tiếp cận truyện cổ Tà Ôi. Tạp chí Sông Hương. Số 219 tháng 5. 2007. Tr. 63-64.
(3) Quốc Sử quán triều Nguyễn – Đại Thực Lục. Bản dịch Viện Sử học. T.37. Hà Nội, Khoa học Xã hội. 1977. Tr. 127-128.
(4), (5) Quốc Sử quán triều Nguyễn – Đại Nhất Thống Chí. Sđd. Tr. 114-115.
(6) Thích Đại Sán – Hải Ngoại Ký Sự. Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt . Huế. Viện Đại học Huế. 1963. Tr. 200.
(7) Nguyễn Khoa Chiêm – Triều Công Nghiệp Diễn Chí. Bản dịch Ngô Đức Thọ (dưới nhan đề Trịnh Nguyễn Diễn Chí) T.1. Huế. Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên. 1986. Tr. 110-113.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...