Sông Hương dòng sông huyền thoại

11:09 10/09/2008
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

Vua Nghiêu đã mô phỏng theo hình dạng chữ khoa đẩu trên lưng rùa thần để sáng tạo nên lịch rùa (theo sách Cương Mục Tiền Biên của Kim L‎‎ý Thường và Thống Chí của Trịnh Tiều). Có lẽ đây là loại lịch sớm nhất của loài người. Đến năm Tân Mão đời vua Thành Vương nhà Chu (1063-1026 trước Công nguyên), x Việt Thường lại ba lần sai sứ đến cống chim trĩ trắng (theo Sử Ký của Tư Mã Thiên). Xứ Việt Thường nằm ở nơi nào hiện nay cũng mơ hồ như huyền sử, nhưng Đại Nam Nhất Thống Chí của triều Nguyễn vẫn khẳng định đất Kinh sư (nay là Thừa Thiên Huế) “là đất Việt Thường thị”(1). Không rõ vào lúc đó rùa thần có bơi lội trên dòng sông Hương hay không, nhưng loài chim trĩ thì đến nay vẫn còn quyến luyến quanh các khu rừng đầu nguồn sông Hương.
Trên vùng đất nầy, về phía thượng lưu sông Hương, nhóm cư dân Tà Ôi vẫn còn lưu giữ truyền thuyết về sự ra đời của con người khá ly kỳ. Chuyện kể rằng từ ngàn xưa, lúc trời đất bị thảm họa, loài vật chỉ còn lại hai “cô cậu” chó đực và chó cái, con người lại chưa có mặt. Vào lúc trời hạn hán, sông suối cạn kiệt, đôi chó duy nhất còn lại trên mặt đất đã vượt qua nhiều núi đồi hiểm trở mới tìm được nguồn nư
c. Chó cái đang bụng mang dạ chửa phải lê mình đến bên bờ suối. Đúng lúc chúi mình xuống uống nước cũng là lúc chó cái chuyển dạ, sinh ra một quả bầu dài. Một nửa quả bầu nằm dưới nước, nửa còn lại nằm vắt trên bờ. Qua nhiều tháng liền, nửa quả bầu trên bờ bị nắng hạn nung nóng đen thẫm, nửa ngâm dưới nước trở nên trắng hơn. Khi mùa xuân đến thì quả bầu vỡ ra và những con người đầu tiên từ lòng quả bầu vươn dậy. Số người nằm ở nửa quả bầu trên bờ có nước da ngăm đen, những người nằm ở nửa quả bầu dưới nước có làn da trắng hơn. Số người có làn da trắng hơn xuôi theo dòng sông về đồng bằng sinh sống và trở thành người Kinh. Những người có làn da ngăm đen đi ngược về đầu nguồn tìm rừng phát rẫy, trở thành người Tà Ôi bây giờ(2). Câu chuyện cổ kể về sự tích Kinh-Thượng được sinh ra cùng một quả bầu ở Trị Thiên Huế phảng phất dấu ấn tương đồng với truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở thành trăm con, 50 con theo mẹ lên rừng, 50 con theo cha xuống biển của người Việt. Huyền thoại từ đầu nguồn sông Hương đến nay vẫn được người Tà Ôi lưu giữ dưới hình thức chuyện kể An xoar trong sinh hoạt cộng đồng của vel, rẫy.
Cũng từ dòng sông nầy, xuôi về phía hạ lưu, tại làng Khuất Phố trước đây, nay là làng Hải Cát, huyện Hương Trà, những cư dân Chăm đã dựng đền thờ thần Mẹ xứ sở Po Yan Inư Nagar tại núi Ngọc Trản. Hình ảnh người mẹ sáng tạo thế giới của dân tộc Chăm tiếp tục được người Việt, nhất là các đời vua triều Nguyễn tôn thờ dưới hình thức chuyển hóa thành nữ thần Việt: Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi. Đặc biệt dưới thời Đồng Khánh, vừa lên ngôi nhà vua đã cho tôn tạo, đổi tên đền Ngọc Trản thành điện Huệ . Đại Nam Thực Lục đã ghi: “Vua khi còn ẩn náu thường chơi xem núi ở đấy, mỗi khi đến cầu khẩn, phần nhiều có ứng nghiệm. Đến nay vua phê bảo rằng: “Đền Ngọc Trản thực sự là núi Tiên nữ linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ hình thế như con sư tử uống nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền ấy nhờ được linh khí đắc nhất, cứu người độ đời, giúp cho phúc lộc hàng muôn, giúp dân giữ nước. Vậy cho đổi đền ấy làm điện Huệ , để biểu hiện ơn nước một phần trong muôn phần”(3).
Tương tự như đền thờ thần Mẹ xứ sở của người Chăm trở thành Tiên nữ linh sơn bên bờ sông Hương, dọc theo dòng sông nầy, những hình tượng Chăm bằng đá lạ lại được người Việt tôn thờ thành những nữ thần linh thiêng, đi kèm với huyền thoại dân gian ly kỳ. Tại làng Thanh Phước huyện Hương Trà, Đại Nam Nhất Thống Chí đã cho biết: “Tương truyền, tr
ước
có một người chài bủa lưới ở sông. Khi kéo lưới lên thấy nặng, bèn lặn xuống nước xem biết là có viên đá vướng lưới, bèn dời đi khúc sông khác. Đến đêm, mộng thấy một bà già bảo rằng: “Ta đây là thần, nếu đem được ta lên bờ, ta sẽ phù hộ”. Ngày hôm sau, người chài họp những người đồng bọn lặn xuống sông khiêng đá lên bờ,... đem để ở chỗ sạch sẽ rồi dựng đền tranh để thờ. Từ đấy tỏ ra linh ứng. Hồi đầu bản triều phong là “Kỳ Thạch phu nhân chi thần”(4). Ngôi đền Kỳ Thạch phu nhân với bức phù điêu Civa múa đến nay vẫn còn được người dân làng Thanh Phước gìn giữ, tế lễ hàng năm.
Ở tận cuối nguồn sông Hương, bên bãi Bát Thát gần cửa biển Thuận An, một tảng đá thiêng có hình tượng như người đàn bà có thai đã được người dân lập đền thờ phụng với danh hiệu Thai Dương phu nhân (bà Dàng có thai). Danh hiệu Thai Dương đã trở thành tên của làng Thai Dương. Tương tự như Kỳ Thạch phu nhân, Đại Nam Nhất Thống Chí cũng cho biết: “Tương truyền trước có người dân trong xã tên là Bố, đánh cá ở cửa biển, một hôm mưa gió tối tăm, đến nửa đêm mưa tạnh trời quang, Bố thấy cạnh bờ có viên đá kỳ dị, bèn v xoa, rồi ngủ đi, chợt mộng thấy một người đàn bà nhan sắc đẹp đẽ nói: “Ta đây là Thai Dương phu nhân, mi là người phàm, sao dám nhờn như thế? Phải đi ngay”. Bố giật mình tỉnh giấc biết là đá thần, liền khấn ngay rằng: “Nếu đá có thiêng, xin phù hộ cho tôi đánh cá được”. Từ đấy mỗi ngày đánh cá được càng nhiều, bèn dựng đền tranh ở bến sông để thờ viên đá... Từ đấy lừng lẫy anh linh. Hồi đầu bản triều cầu gió thường được linh ứng, bèn sửa làm đền miếu, có lệ quốc tế”(5). Tục thờ cúng Bà Dàng có thai còn gắn liền với câu chuyện dân gian bi thảm về cuộc tình duyên oan nghiệt của đôi trai gái người Chăm, gốc gác là anh em ruột, do lưu lạc từ nhỏ, lớn lên gặp nhau rồi nên duyên chồng vợ. Lúc người vợ mang thai, tình cờ người chồng phát hiện vợ mình chính là em gái nên lặng lẽ bỏ đi. Người vợ ngày đêm mong ngóng chồng đến hóa đá. Tập tục thờ cúng Bà Dàng cuối năm âm lịch ở Thai Dương đã đi vào tục ngữ xứ Huế, mô tả đầy đủ trình tự bốn ngày chăm
sóc, tắm rửa, trang sức và tế lễ tượng thần:
Hai mươi làm tốt
Hai mốt xỏ tai
Hai hai đeo hoa
Hai ba tế Dàng.
Và cũng bên dòng sông Hương, những huyền thoại thuần Việt lại tiếp tục nẩy sinh. Vào năm 1696, khi Hòa thượng Thạch Liêm Thích Đại Sán đến Thuận Hóa giúp chúa Nguyễn Phúc Chu, nhân làm hai bài thơ về chùa Thiên Mụ cũng đã nhắc đến:
Trích tiên chuyện cũ truyền Thiên Mụ
 Hồn mộng mơ màng trở lại đây
(6).
Câu chuyện tiên nữ bị đày (trích tiên) ở chùa Thiên Mụ đã được Nguyễn Khoa Chiêm kể lại trong bộ Nam Triều Công Nghiệp Chí viết năm 1719: “Một hôm chúa nhân khi nhàn hạ đi du ngoạn các nơi núi non sông biển, chẳng đâu không khắp. Khi đến xã Hà Khê, huyện Hương Trà, thấy giữa chốn đồng bằng đột khởi một gò đồi cao dáng tựa như chiếc đầu rồng đang ngoái nhìn về phía núi mẹ. Đoan vương Nguyễn Hoàng trong bụng lấy làm ưa thích, bèn trèo lên đồi cao ngắm nhìn khắp xung quanh, chợt thấy một đoạn hào đào cắt ngang dưới chân núi. Nguyễn H
oàng thầm nghĩ lấy làm tiếc, chưa biết nguyên do ra sao. Sau đó Đoan vương tìm người địa phương hỏi thăm ngọn đồi kia tên gọi là gì. Người địa phương thưa rằng:
- Chúng tôi là dân mọn, chỉ nghe lời truyền của các cụ ngày xưa bảo rằng: Núi nầy rất linh thiêng, khoảng đời nhà Đường có viên đại tướng tên là Cao Biền từng đi khắp nơi núi non sông biển nước ta xem những nơi nào có vượng khí linh thiêng thì tìm cách cắt yểm đi, ý là muốn cướp đoạt nước Nam ta. Cao Biền thấy trên núi nầy có khí thiêng bèn đào phía sau chân để cắt mạch đi khiến cho linh thiêng về sau không cư tụ được. Đêm hôm ấy bỗng có một người đàn bà thể sắc trông thì còn trẻ, nhưng mày tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ quần xanh ngồi dưới chân núi kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều, thì nên lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi nầy để phúc dân giúp nước, tất không có gì phải lo”. Người đàn bà ấy nói xong liền biến mất. Dân trong vùng ghi nhớ lấy hình dáng bà ấy, đặt tên là núi Thiên Mụ. Ấy là sự tích người xưa truyền lại như thế, đúng sai ra sao, bọn dân chúng tôi không biết rõ, mong tôn ông minh xét.
Nguyễn Hoàng nghe nói cả mừng bảo rằng:
- Ấy là bà lão bảo ta mở nền định đất, biến nhà thành nước để nên nghiệp lớn.
Nói đoạn, sai người cất dựng chùa Phật, viết biển đề chữ “Thiên Mụ tự”. Từ đó dân chúng tới cầu khẩn đều thấy linh thiêng ứng nghiệm”(7).

Khởi đầu từ những huyền thoại về rùa thần và chim trĩ trắng, về quả bầu sản sinh loài người ở vùng đầu nguồn sông Hương, những huyền thoại gắn với dòng sông nầy về sau lại mang hình tượng của những vị nữ thần: Từ thần Mẹ xứ sở Po Yan Inư Nagar – Thiên Y A Na đến Kỳ Thạch phu nhân, Thai Dương phu nhân và bà tiên Thiên Mụ mày tóc trắng phơ, vận áo đỏ quần xanh trên đồi Hà Khê đều mang đậm yếu tính nữ, yếu tính của dòng sông Hương. Đến thời hiện đại, trên dòng sông thơ mộng nầy, một huyền thoại mới đầy chất thơ lại xuất hiện tiếp. Huyền thoại mới không còn phảng phất phong vị truyền thuyết ly kỳ, huyền bí nhưng vẫn rất huyễn hoặc, thu hút lòng ngưỡng mộ của nhiều người Huế và du khách: Huyền thoại trường Đồng Khánh.
Không rõ từ những ngày đầu mới thành lập năm 1917, ngôi trường nữ bên dòng sông Hương quy tụ những tiểu thư đài các một thời đã tạo nên những ấn tượng gì ở xứ kinh kỳ, nhưng theo dần với thời gian, ngôi trường nữ sinh Đồng Khánh với những chiếc nón nghiêng, những tà áo dài rợp hai bờ sông, rợp cả con đò ngang Thừa Phủ và cầu Trường Tiền đã là một thế giới kỳ lạ của riêng Huế: dịu dàng, kín đáo, đài các, mơ hồ và rất huyễn hoặc, huyễn hoặc như một huyền thoại thu hút nhiều chàng trai xứ Huế. Ngày nay ngôi trường đã thay tên gọi. Thế giới độc đáo chỉ riêng có của nữ sinh Huế đã bị phá vỡ bởi những khuôn mặt của học sinh nam, sinh hoạt học đường cũng không còn những nét đầy nữ tính công-dung-ngôn-hạnh. Con đò Thừa Phủ một thời cũng mất bóng. Tiếng guốc của nữ sinh không còn khua vang trên các nhịp cầu Trường Tiền. Chất thơ của dòng sông xem chừng cũng đang bị nhiều áp lực đe dọa. Ngôi trường Đồng Khánh thuở nào nay đã trở thành một huyền thoại, chỉ còn đọng lại trong k‎‎ý ức của lớp người lớn tuổi và chuyện kể về Huế một thời. Biết đến bao giờ dòng sông Hương lại xuất hiện thêm một huyền thoại mới.
Ngày ấy chắc cũng mơ hồ như một huyền thoại.
T.T.C
(nguồn: TCSH số 229 - 03 - 2008)

 

-----------------------------
(1) Quốc Sử quán triều Nguyễn – Đại Nhất Thống Chí. Bản dịch Phạm Trọng Điềm. T.1. Thuận Hóa. 1997. Tr. 13.
(2) Trần Nguyễn Khánh Phong – Tiếp cận truyện cổ Tà Ôi. Tạp chí Sông Hương. Số 219 tháng 5. 2007. Tr. 63-64.
(3) Quốc Sử quán triều Nguyễn – Đại Thực Lục. Bản dịch Viện Sử học. T.37. Hà Nội, Khoa học Xã hội. 1977. Tr. 127-128.
(4), (5) Quốc Sử quán triều Nguyễn – Đại Nhất Thống Chí. Sđd. Tr. 114-115.
(6) Thích Đại Sán – Hải Ngoại Ký Sự. Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt . Huế. Viện Đại học Huế. 1963. Tr. 200.
(7) Nguyễn Khoa Chiêm – Triều Công Nghiệp Diễn Chí. Bản dịch Ngô Đức Thọ (dưới nhan đề Trịnh Nguyễn Diễn Chí) T.1. Huế. Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên. 1986. Tr. 110-113.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.

  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

  • Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.