Sợi tơ nhện

10:15 04/04/2012

AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)

Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.

Nhà văn Akutagava Rjúnoszuke - Ảnh: internet

Lúc đó là buổi sáng trên Niết bàn.

Đức Phật dừng lại đăm chiêu suy nghĩ và bỗng nhiên người nhìn thấy qua ô cửa sổ nước lấp lánh giữa các tầu lá sen to bản tất cả những gì diễn ra phía dưới ở tận đáy đầm sen.

Chiếc đầm trên Niết bàn sâu hút mãi cho tới tận Âm phủ.

Qua lớp nước trong suốt như pha lê thì ngọn núi Kim và dòng sông Xanđdu thấy rõ mồn một y như nhìn qua con mắt ống nhòm vậy.

Ở tận dưới đáy Âm phủ hằng hà sa số phạm nhân chen chúc nhau. Và rồi Đức Phật đã đưa mắt nhìn và dừng lại ở một phạm nhân tên là Kanđata.

Kanđata này là một tên cướp hung bạo. Hắn đã phạm rất nhiều tội ác : giết người, cướp của, đốt nhà nhưng dù sao tính sổ thì hắn cũng còn có được một việc thiện.

Có lần đi qua rừng hắn nhìn thấy ở ven con đường mòn một con nhện nhỏ tí xíu. - Kanđata đã đưa chân ra định dẫm nát nó nhưng rồi hắn tự nhủ: "Không, cho dù nó bé thật, song nói gì thì nói chứ nó vẫn là một sinh vật. Giết chết nó một cách vô ích thì thật đáng tiếc".

Và hắn đã tha chết cho con nhện đó.

Ngắm nhìn cảnh tượng dưới Âm phủ, Đức Phật nhớ ra rằng tên cướp Kanđata có lần đã giành sự sống cho một con nhện và người muốn, nếu có thể thì sẽ cứu tên phạm nhân này ra khỏi địa ngục để đền bù cho dù chỉ là một việc thiện đó. May thay đúng lúc đó một chú nhện trời sa xuống trước mặt Đức Phật. Nhện nhả ra một sợi tơ bạc tuyệt đẹp rủ xuống đất như một sợi ngọc thạch chạm vào lá sen.

Đức Phật cẩn thận lấy tay cầm sợi tơ cực mảnh đó rồi thả nó xuống khoảng nước giữa các cây sen trắng như ngọc. Sợi tơ nhện bắt đầu buông thẳng xuống mãi cho đến tận đáy sâu Âm phủ.

2

Ở đó, dưới đáy địa ngục Kanđata cùng với các phạm nhân khác đang phải chịu nỗi đau đớn kinh khủng tại Hồ Máu, lúc thì dềnh lên trên, lúc thì chùn sâu xuống.

Nhìn vào đâu thì cũng chỉ thấy độc bóng tối mịt mùng. Chỉ một đôi lúc mới thấy thấp thoáng mờ nhạt một cái gì đó trong bóng đêm. Đó chính là những chiếc kim nhọn hoắt lấp lánh trên núi Kim khủng khiếp. Chẳng có lời nào có thể miêu tả nổi sợ kinh hãi rùng rợn của cảnh tượng ấy. Xung quanh tĩnh mịch như trong một nấm mồ. Chỉ đôi lúc nghe thấy tiếng thở dài não nuột của phạm nhân.

Những linh hồn tội lỗi bị quật ngã sau bao nhiêu nhục hình ở tận đáy sâu thẳm nhất của Âm phủ không còn đủ sức để khóc than rên rĩ nữa.

Đó là vì đến ngay một tên cướp khét tiếng như Kanđata, như sặc lên, trong Hồ Máu cũng chỉ còn co rúm lại như con ếch lúc hấp hối mà thôi. Song đột nhiên Kanđata ngửng đầu lên và nhìn vào bóng đêm treo lơ lửng trên Hồ Máu. Từ cái bóng đêm hoang vu ấy từ tít trên bầu trời xa thăm thẳm một sợi tơ nhện ánh bạc, lấp lánh như một tia sáng cực mạnh đang buông xuống chính chỗ hắn ta mà dường như tất cả các phạm nhân khác không nhìn thấy.
 

Minh họa: BỬU CHỈ


Kanđata nắm chặt lòng bàn tay vì sung sướng. Cần phải nắm lấy sợi tơ nhện này vào leo lên nó, lên mỗi lúc một cao hơn. Khi ấy, chắc hẳn là sẽ vượt ra khỏi được Âm phủ.

Và biết đâu được nếu gặp may sẽ lên tới Niết bàn, người ta sẽ không tống mi lên đỉnh núi Kim, không quăng mi xuống Hồ Máu một lần nữa.

Thấy khoan khoái hẳn vì niềm hy vọng ấy, hắn bám cả hai tay rất chắc vào sợi tơ nhện và bằng cả sức mình leo lên trên.

Đối với hắn, một tên cướp giàu kinh nghiệm, thì đó là một việc rất quen thuộc.

Song từ Âm phủ lên tới nơi trú ngự ở cõi Niết bàn phải xa tới hàng vạn dặm. Cho dù hắn có cố đến thế nào  thì lên được đến đỉnh núi cũng không phải dễ dàng. Leo mãi, leo mãi, nhưng cuối cùng Kanđata, một lực sĩ như vậy cũng thấy thấm mệt. Hắn không thể nào trèo một mạch không nghỉ lên tận bầu trời.

Không thể nào làm khác được hắn phải nghỉ. Thế là hắn dừng lại ở nửa đường, vẫn bám lấy sợi tơ nhện, và bỗng nhiên hắn nhìn xuống dưới, xuống cái khoảng trống sâu thẳm.

Không phải ngẫu nhiên mà Kanđata kiên trì leo lên trên theo sợi tơ nhện mảnh này. Cái Hồ Máu nơi mà vừa mới đây hắn phải chịu những nỗi đau đớn hãi hùng như đang chìm trong bóng tối mịt mùng. Còn đỉnh ngọn núi Kim khủng khiếp lấp lánh mờ mờ ảo ảo trong bóng đêm của đáy địa ngục như đã ở phía dưới chân hắn rồi. Nếu như hắn vẫn tiếp tục leo khéo léo như vậy thì có lẽ chắc chắn là hắn sẽ thoát khỏi cực hình ở Âm phủ.

Bám chắc lấy sợi tơ nhện, Kanđata lần đầu tiên sau nhiều năm lại tìm thấy được giọng nói của con người và hắn vừa cười to vừa hét lên.

- Ta thoát nạn rồi! Thoát nạn rồi!

Và bỗng nhiên hắn nhận thấy cả những phạm nhân khác không sao đếm xuể đã bám đầy vào sợi tơ nhện như đàn kiến leo theo sau hắn ngày một lên cao hơn.

Trước cảnh tượng đó, vì sợ hãi, vì sửng sốt, một lúc lâu Kanđata chỉ còn biết đảo mắt nhìn và há hốc miệng ra như một thằng ngốc.

Một sợi tơ nhện mảnh thế này khó khăn lắm mới chịu nổi một mình hắn thế thì làm sao nó có thể đủ sức chịu đựng số người nhiều đến thế này!

Ví như sợi tơ nhện đứt thì chính hắn ta - hắn nghĩ - đã lên cao đến chừng này rồi sẽ ngã lộn nhào xuống địa ngục. Thế là phải vĩnh biệt niềm hy vọng được thoát nạn!

Trong lúc hắn tự nhủ thế thì những phạm nhân, cả một đàn một lũ đã leo lên khỏi đáy đen tăm tối của Hồ Máu. Hàng trăm, hàng nghìn phạm nhân giăng ra như một giây chuyền dài đang vội vã leo lên theo sợi tơ nhện lấp lánh như một tia sáng mảnh - Cần phải làm một điều gì đó thật mau, nếu không thì chắc hẳn sợi tơ nhện sẽ đứt và hắn sẽ ngã lộn nhào xuống âm phủ.

Và Kanđata gào lên thật to:

- Này, lũ phạm nhân các người! Đây là sợi tơ nhện của ta. Ai cho phép các người leo lên thế? Hãy tụt cả xuống…! Tụt cả xuống dưới mau lên!

Nhưng điều gì đã xảy ra trong khoảnh khắc ấy!

Sợi tơ nhện cho đến trước lúc đó vẫn nguyên vẹn không sây sát gì bỗng nó đánh tách một tiếng và đứt phựt ở đúng chỗ mà Kanđata bám vào.

Hắn không kịp kêu lên một tiếng "ối" thì hắn đã ngã lộn nhào như con quay quay tít trong gió và ngày một xuống thấp hơn, thấp hơn cho mãi tới đáy sâu thăm thẳm tối mịt mùng của Âm phủ.

Và chỉ còn mỗi một đoạn tơ nhện ngắn ngủi vẫn treo lơ lửng và lấp lánh sáng như một tia sáng yếu ớt trong bầu trời không trăng sao dưới Âm phủ.

3

Đứng trên bờ đầm sen Đức Phật nhìn thấy mọi chuyện xẩy ra từ đầu đến cuối. Và khi Kanđata giống như một hòn đất bị quăng xuống chìm nghỉm tận đáy Hồ Máu, Đức Phật với vẻ mặt buồn bã tiếp tục cuộc đi dạo của mình.

Trái tim của Kanđata không có lòng trắc ẩn, hắn chỉ nghĩ làm sao một mình hắn thoát khỏi âm phủ, và vì điều đó mà hắn bị trừng phạt thích đáng: lại một lần nữa bị nhận chìm xuống đáy ngục. Trước mặt Đức Phật cảnh tượng đó mới nhục nhã và đáng thương làm sao!

Song sen trong đầm sen trên Niết bàn vẫn thơ ơ hờ hững.

Những đài hoa lấp lánh như ngọc vẫn bình thản rung rinh bên chân Đức Phật. Và mỗi bước chân người đi thì những nhị sen vàng lại tỏa ra xung quanh cái mùi thơm ngạt ngào.

Lúc đó ở Niết bàn đã sắp đến giữa trưa.

BÙI HÒA
(dịch theo bản tiếng Nga)
SH21/10-86)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.

  • KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.