Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà văn Nguyên Hồng (5/11/1918 - 5/11/2018), lần đầu tiên, “Nhật ký Nguyên Hồng” ra mắt bạn đọc. Hơn 600 trang nhật ký Nguyên Hồng viết từ năm 1941 đến trước khi ông mất (1982) đã được công bố. Những trang viết hiển hiện cả một thời kỳ, sống động và chân thực. Đặc biệt là đời sống văn nghệ của đất nước trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ XX. Được sự đồng ý của NXB Trẻ và đại diện gia đình nhà văn Nguyên Hồng, chúng tôi trích giới thiệu một số trang nhật ký của ông.
Ngày 7/11/1943. Cơm xong đi chơi. Ý định đi xem kịch. Xem Nguyễn Tuân và Thế Lữ và cái ánh sáng xa hoa với một lòng u ám. Không đi. Hay đi tìm một nguồn cảm khác. Đến với bọn Đại Thanh, đi hát, đi hút? Hay một mình bê tha trong đêm tối? Hay về viết! Viết! Viết! Cái truyện ngắn còn dở dang kia.
Tôi đã về. Và đã viết.
Tôi đã viết xong.
Ngày 2/3/1948. Tôi thấy tôi không còn muốn viết nữa. Một bước sa ngã mà chân tôi lấp ló đặt vào đã bắt đầu là phút này chăng? Nhưng không! Cuộc sống có những cái hàng ngày rất ma quỉ, nó lôi cuốn người ta đến lúc ngã sấp mặt xuống lúc nào mà không biết. Sống dễ quá, lười quá, hèn quá… Đâu mình có thấy mình? Ấy thế rồi chết!
Tôi rợn và nhục cho tôi. Sự ồn ào, hèn nhát của một lối sống nông nổi, ích kỷ thật đã cảm thấy hơn bao giờ hết và không thể nào còn được nữa. Cần gì phải viết vào lòng bàn tay một câu “nguyền” - Nhưng không! Cứ phải nguyền đi. Nguyền một cách rứt thịt mình ra, nếu không cắn răng lại mà nhìn sâu vào mình, vào sự thật.
Ngày 3/3/1948. Tôi đi thẳng về đến nhà. 40 cây số. Tôi ho nhiều hơn. Nhưng tôi đã thấy nhẹ cả lòng. Về đây tôi được viết. Những dòng chữ xanh ngắt chờ đời mực và giấy và sự bình tĩnh, đằm thắm.
Ngày 31/3/1948. Xuân Diệu đến chơi. Tôi lại phải bỏ dở viết. Các con bạn tôi và của tôi khóc quấy. Tôi lại phải xuống quán uống rượu.
Khổ vì viết quá! Sáng tác! Thật là rứt thịt mình ra.
Ngày 6/7/1949. Gặp Nguyễn Huy Tưởng. Tôi lại nói nhiều, để phân trần, nhưng rồi cả hai cười xòa với nhau. Ăn cơm ở Đại Từ. Tin 3 con Lưu Văn Lợi bị lao cả ba. Gặp Nguyễn Hồng Nghi và Bảy Hổ. Nguyễn Hồng Nghi cũng hả hê vì đã thu xếp ổn thỏa công việc gia đình. Tôi lại nghĩ đến sự học hành sắp tới của thằng Hà.
Ngày 26/7/1949. Viết xong đoạn thứ hai của truyện “Bố ơi là bố”. Đoạn này hóc búa nhất mà thoát là không còn lo gì nữa. Tôi ra Yên Dã cạo đầu. Vừa đi vừa nghĩ… nghĩ cả sang đoạn cuối của “Bố ơi là bố”. Cũng lại thấy vững chãi nữa! Chao ôi!
Ngày 21/1/1950. Tôi viết xong bản thảo thứ bốn “Con nuôi Bếp Ba”. Cho đánh máy rồi đưa sang cho Tố Hữu xem. Tố Hữu kêu rất ghê. Tô Hoài cũng đồng ý nhiều điểm. Tố Hữu bảo: “Những tên tuổi anh em đồng chí phải cẩn thận”, có ý ngăn tôi đăng bài đó. Tôi về sửa lại. Tôi bằng lòng sửa lại và bằng lòng không đăng nếu “đầu tiên, nó không sống”. Tôi thấy không gì khổ sở và nhục bằng đưa ra một sáng tác chết! Tôi không có cái tự ái ngu tối! Tối về tôi lại sửa “Bếp Ba”. Thấy hơi buồn. Bao nhiêu truyện chưa được viết. Những truyện rứt thịt của đời mình và đã nung nấu bao ngày rồi.
Ngày 14/3/1951. Về nhà sáng. Kim Lân náo nức khoe chuyện của Tô Hoài. Đông Bắc sống, nhân vật và cảnh phảng phất của Tầu, có lẽ ảnh hưởng Chúc phước. Tô Hoài có lẽ ăn giải V.N. Kim Lân tiếc truyện “Trung du”.
Chế Lan Viên ra. Bình Trị Thiên bị lụt 95%.
Ngày 28/5/1953. Ra đi. Chào cụ Tố (nhà văn Ngô Tất Tố- B.T). Cụ và tôi chào và xin lỗi nhau.
Ngày 5/8/1953. Hồng Chương cho tôi xem thư của Văn Cao. Văn Cao lại ho lại. Có lẽ bị khí quản. Văn Cao đi chỉnh huấn ở Trường Đảng.
Anh có nhắc anh HC đến gần tôi và khuyên tôi đừng nghĩ nhiều về gia đình quá.
Tối nay tôi lại trằn trọc trước người đồng chí của tôi đang hấp hối! Anh bị cancer amidant, đau đớn khắp người.
Ngày 1/5/1954. Về đến hàng nhà Quì, anh chỉ cho tôi nấm đất ngoài ruộng mới: mộ cụ Tố! Cụ Ngô chết rồi! Đảng bộ xã đọc điếu văn. Cả ấp đi đưa. Nhà trên làm cả cỗ.
Ngày 21/5/1954. Vào ăn cơm ở nhà cụ Thâm Tâm. Cụ càng gày yếu. Thằng Khoa ho và sốt. Cụ ao ước được gửi bản truy tặng của T.T về. Và sau này nếu thằng Khoa có đi Trung Quốc học, thì cụ nhờ người đèo xe về chơi với thằng Dũng, con Bích... Một ông cụ ngoài 70 tuổi, hom hem, bé nhỏ, gần chết, chở trên xe đi chơi với con và kiên quyết theo kháng chiến.
Ngày 30/10/1954. Tôi nhận được tạp chí Văn Nghệ. Nghĩ lại những ngày sống với cụ Tố. Cái dáng đi vất vả, vai đeo cái cặp quần áo có cả chăn màn, tay chống gậy, đi biền biệt trên đèo Khế và con đường Bắc Giang - Đại Từ, bờ sông Máng, lúc nắng hè, chẳng sợ tàu bay gì cả! Sau đây, khi trở lại những Cao Thượng, Hồng Kiều, Hoàng Hà, lại thêm bao nhiêu kỷ niệm dính tôi vào với đất Bắc Giang. Tôi sẽ viết một loạt bài về những anh em bạn viết đã khuất, giới thiệu đầy đủ hơn, để cố làm nổi lên hình ảnh những trí thức chiến đấu của cách mạng và kháng chiến.
Ngày 8/12/1954. Đi chơi với Chế Lan Viên ngoài bờ sông. Nó đọc lại mấy câu thơ của Hàn Mặc Tử - Huy Cận và nhắc lại câu nói của Vương Nghị trong một buổi gặp mặt các nhà văn Việt Nam. Nó bảo nó thích bài này của tôi hơn bài trước và nhấn tôi nên chuyển thành vần nữa để độc giả nhớ dễ.
Ngày 17/2/1955. Tôi kể cả chuyện “Con chuột” cho Chế LanViên nghe. Viên khuyên tôi nên viết “Cửa bể”. Viên bảo bao nhiêu nhà văn được người ta nhắc đến với những tên đất nước thân yêu vì đã viết về nơi chôn rau cắt rốn.
Tôi sẽ viết “Cửa bể” và cả “Con chuột” nữa.
Thư vợ tôi viết có ý buồn về sự đối xử của Hội. Không hiểu cơ quan có để ý gì đến gia đình tôi không? Hôm đọc thư Mai Khôi, người bạn trẻ của Phùng Bảo Thạch, y bảo thường gặp Nguyễn Tuân ngồi một mình ở quán Bồ Câu. Nguyễn Tuân có viết được gì không? Công tác những gì? Gia đình thế nào? Và bao anh em khác nữa.
Ngày 3/6/1959. Thu hoạch bài mục I. Duy vật lịch sử. Lên tìm Tuân và Tưởng. Bờ Hồ chật cả. Vào giải khát. Nóng ngột ngạt. Uống xong, ra về, gặp Tuân rồi K.L. Đến khuya, đưa Tuân về nhà. Tưởng buồn bực. Tiền tác giả cuốn “Kim Đồng” được có 25đ. Vợ Tưởng thấy viết nhiều quá, không có gì bồi dưỡng, khóc. Sắp sửa đi làm hết.
Tôi và Lân, Tưởng thảo luận rất gay về “có thể sống bằng ra biên chế được không”. Lân lấy cả nhà anh Duẩn ra đối chứng. Tôi đem cả lợn, bò và nhắc lại cái hội nghị với vợ con ở gác Trần Nhân Tôn ra để chứng minh “thế nhà tôi” đương lên. Tôi khỏe, thằng Hà sẽ làm giúp bố, Giang chăn bò v.v… Thảo luận xong tôi thấy buồn. Nhưng phải quyết tâm ra đi để viết. Khổ, tôi cũng phải viết cho xong bộ tiểu thuyết.
Ngày 8/8/1960. Tôi viết xong bài về Nguyễn Huy Tưởng (lúc này nhà văn Nguyễn Huy Tưởng mới mất - B.T). Tôi ngồi viết trên cái vali năm ngoái Tưởng ngồi. Không cầm được nước mắt. Mấy hôm, cảnh vật xung quanh tôi, y như cảnh năm xưa Tưởng lên.
Ngày 21/2/1961. Họp nghe Nguyễn Đình Thi phổ biến về sáng tác. Trưa ăn cơm ở cơ quan. Chiều bác Ngọc, Thắng, Tiếu thết cơm. Tôi cùng vợ chồng Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Kim Lân đi xem mấy cuốn trong A Phủ. Phim chưa có tiếng nhưng rất thú. Về nhà Nguyễn Tuân uống rượu. Say quá. Nguyễn Tuân, Tô Hoài và tôi ký vào chai Condonronge Mum và Champagne để kỷ niệm. Tôi say quá. Nghe thêm những đĩa hát của Đàm Mộng Hoàn, Chu Thị Năm. Đến 2 giờ mới tan tiệc rượu bất thường này.
Ngày 25/11/1961. Một tối khuya tôi và Tuân uống rượu ở nhà Vạn Lịch. Tôi ngủ lại. Vạn Lịch lục sục cả đêm, ho. Tối 27, tôi hụt buổi xem phim Tatinia, về nhà chờ nghe phát thanh, Tuân đến, mời tôi uống cognac. Tuân nói thực với tôi, đã có một dạo anh em và cả Tuân nữa đều nghi ngờ cái sức còn viết được của tôi. Giờ, chưa biết hay thế nào, nhưng với 560 trang tiểu thuyết, tôi đã làm được một cái gì. Nhưng mà tôi phải tiếp tục khẩn trương, hoặc “Đen tối” hoặc “Hoàng Hoa Thám”. Tôi thấy sự thôi thúc của bạn mà thêm lo. Nhưng tôi càng tin mình hơn...
* Nhà văn Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5/11/1918 tại Nam Định. Ông là nhà văn có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm của ông mang một tình cảm nhân đạo thống thiết. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn “Linh hồn”, đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết “Bỉ vỏ”. Tác phẩm là bức tranh xã hội sinh động về thân phận những “con người nhỏ bé dưới đáy” như Tám Bính, Năm Sài Gòn...
Nhà văn Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Tháng 9/1939, ông bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở căng Bắc Mê (Hà Giang) năm 1940. Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.
Năm 1947, ông đưa gia đình tản cư lên sinh sống tại xóm Cầu Đen, xã Quang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang và ông coi đây là quê hương thứ hai của mình. Ngày 2/5/1982, nhà văn đột ngột ra đi ở tuổi 64. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là “Núi rừng Yên Thế”. Năm 1996, nhà văn Nguyên Hồng được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.
Theo Hoàng Thu Phố - ĐĐK
Khi được hỏi lý do nào thôi thúc bà hoàn thành cuốn tiểu thuyết dã sử về Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, nhà văn Lê Phương Liên tâm sự rằng: “Tôi hăng hái ngồi bên bàn phím, viết đêm viết ngày như là nhập đồng, như là có một nguồn lực siêu nhiên nào thôi thúc”.
HỒ ANH THÁI
Tình yêu quê hương, tình yêu gia đình, những khám phá thú vị trong cuộc sống xa xứ là điểm chung trong hai tác phẩm “Bốn mùa hoang vu xứ kiwi” và “3,1kg hạnh phúc” của hai tác giả trẻ Trần Băng Khuê và Mai Thanh Nga cho bạn đọc thấy được phong vị của những vùng đất khác nhau cũng như cuộc sống của những người Việt trẻ xa xứ.
Sức viết của nhà thơ ngoài lục thập Đinh Ngọc Diệp (sinh năm 1956) có dấu hiệu mạnh lên khi trước thềm xuân mới, ông ra mắt tập “Hành trình 6” (NXB Hội Nhà văn).
Sau giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam, mới đây, đạo diễn Xuân Phượng tiếp tục nhận thêm giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn TPHCM cho hồi ký Gánh gánh… gồng gồng… (NXB Văn hóa - Văn nghệ). Tác phẩm đã phần nào khắc họa chân dung của tầng lớp trí thức Việt Nam trong 2 giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
“Duyên” - tôi biết đến tác giả Nguyên Phong từ cuốn sách Đường mây qua xứ tuyết . Tôi cũng đọc qua về tiểu sử, con đường sự nghiệp của ông. Thật đáng để ngưỡng mộ!
Nhà thơ, nhà báo Vương Tâm vừa ra mắt tuyển “Thơ chọn Vương Tâm” (NXB Hội Nhà văn), với 180 bài thơ và một số bức tranh minh họa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Nhắc tới nhà văn Nguyễn Văn Thọ, bạn văn thường nhớ tới tiểu thuyết “Quyên”; các tập truyện ngắn: “Gió lạnh”, “Vàng xưa”, “Hương mĩ nhân”, “Vườn mộng”; các tập bút ký và tản văn: “Đào ở xứ người”, “Đầu ngọn sóng”… Ông còn sáng tác thơ, vẽ và viết kịch bản phim… Nhớ về thời hoa niên nhiều ước vọng, ánh mắt ông lấp lánh niềm vui.
“Sống mãi trên quê hương anh hùng” (NXB Quân đội nhân dân, 2021) là cuốn sách được viết theo thể loại truyện ký, về cuộc đời của một người anh hùng đã cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Kim Vang - hình ảnh đại diện cho một thế hệ thanh niên lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sẵn sàng hy sinh không tiếc tuổi thanh xuân, xương máu của mình cho hòa bình, thống nhất của dân tộc...
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm quen thuộc với nhiều thế hệ bạn đọc. Đến nay, mặc dù đã được phổ biến rộng rãi, nhưng không phải mọi cắt nghĩa về nó đã thật thấu đáo, thuyết phục.
Nỗ lực không ngừng nghỉ của các nhà nghiên cứu lý luận văn học Việt Nam trong nhiều thập niên qua là giới thiệu, nghiên cứu, tổng thuật các hệ thống lý thuyết để vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn văn học.
Với 17 truyện ngắn gọn gàng, tập truyện ngắn “Gió thổi trước hiên nhà” vừa được NXB Văn học ấn hành, mở ra một thế giới ngổn ngang, đa tạp của cuộc sống đời thường từ miền quê đến phố thị với đủ mọi cung bậc cảm xúc, những cảnh đời buồn vui, đặc biệt là những thân phận đàn bà nhọc nhằn, cay đắng.
Nhãn sách Văn sử tinh hoa thuộc Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam (Tri Thức Trẻ Books) vừa phát hành cuốn "Phong vị xuân xưa - Ngày xuân xem sách biết việc cổ kim". Tác phẩm được sưu tầm, tuyển chọn từ nhiều cuốn sách, báo, tạp chí trong giai đoạn từ 1920 đến khoảng 1945.
Mấy năm gần đây, nhiều danh tác Việt đã được phát hành lại, mang đến cho độc giả hiện đại cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn các ấn phẩm có tuổi đời trên dưới một thế kỷ. Không đơn thuần là “bình mới rượu cũ”, nỗ lực này còn mang tính gợi mở, góp phần định vị, thúc đẩy đa dạng chiều kích văn chương.
“Bốn nhà văn nhà số 4”, NXB Hội Nhà văn, của nhà phê bình Ngô Thảo dày dặn, chia làm bốn phần, tập hợp 35 bài viết của tác giả về bốn nhân vật văn chương nổi tiếng mà sự nghiệp gắn liền với ngôi nhà số 4 phố Lý Nam Đế - tạp chí Văn nghệ quân đội. Đó là Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Thu Bồn.
Truyện ngắn đối với những tác giả trẻ, mới viết văn, nhiều người tự khám phá mình, bao giờ cũng qua một thử thách. Dương Hương - một tác giả trẻ vừa cho ra mắt tập truyện ngắn “Giá của đàn bà” với nhiều cảm xúc mới mẻ. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà văn Trung Trung Đỉnh về tập truyện ngắn , của tác giả Dương Hương, do Liên Việt ấn hành.
Cầm trên tay cuốn “Thời xuân sắc” của nhà văn Huệ Ninh (NXB Thế giới, 2020) - hồi ký của một người phụ nữ bình thường, tôi thật sự xúc động và còn thấy tiếc, tự hỏi sao sách không dày hơn nữa.
“Nấp” trong nhà báo Trần Nhật Minh với vẻ ngoài “đồ sộ, quánh màu nước thời gian”, là trái tim thi sĩ nhiều rung động. Cho nên, có lẽ đã lần lữa mãi, thì cũng phải đến ngày tâm hồn chật căng, buộc phải tỏa lan hương chất mà tháng năm cuộc đời mình đã trầm tích.
“Hừng Đông” viết về “đêm trước” của cách mạng Việt Nam, giai đoạn trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Trong bối cảnh ấy, nhà văn không chạy theo sự kiện, biến cố, mà hướng tới con người cụ thể với tư cách một nhân vật văn học - chiến sĩ Cộng sản Phan Đăng Lưu.
“Lắng đọng và suy nghĩ” (NXB KH&KT, 2020) cái tên sách khiêm tốn của Tạ Quang Ngọc trở nên cuốn hút tôi. Và sự chắt lọc trí tuệ, cũng như chân thành cảm xúc, chân thành tự bạch trong cuốn sách này đã không chỉ khiến tôi cảm phục tác giả, mở mang tri thức, mà còn nâng thêm cho mình bản lĩnh, bồi đắp tình yêu con người, tình yêu đối với quê hương đất nước và sự nghiệp cách mạng.