Quốc ca Việt Nam và những miền ký ức

09:21 25/03/2022

HÀ KHÁNH LINH

Những ngày nửa đầu tháng 12/2021 dư luận rộ lên sự cố Quốc Ca Việt Nam bị tắt tối 6/12/2021 khi chuẩn bị khai trận bóng đá tuyển Việt Nam với tuyển Lào vòng bảng AFF Cup 2020 - vì vấn đề… bản quyền (!)…

Giữa sóng dư luận - trong và ngoài nước - riêng tôi vẫn câm lặng. Cho đến một hôm, có độc giả hỏi tôi:

- Nhà văn Hà Khánh Linh ghĩ thế nào về “vấn đề Quốc Ca” này?

Như vỡ òa cảm xúc, tôi thốt lên:

- Ngăn chặn phổ biến Quốc Ca là một tội ác!...

(…) Các bạn biết không, tôi thuộc lớp người sinh ra và lớn lên tại nửa nước phía Nam bị chia cắt từ sau Hiệp định Genève 1954. Như nhiều bà con cô bác khác ở đây, chúng tôi thường lén mở Radio nghe Đài Tiếng Nói Việt Nam và nghe Quốc Ca VIỆT NAM: “… Đoàn quân Việt Nam đi…”. Những lúc bị người của chính quyền Sài gòn bắt gặp, chúng tôi thường bị trừng phạt bằng: Nhắc nhở gay gắt, dọa nạt và tịch thu máy! Lúc bấy giờ chưa có truyền hình, ai cũng dành dụm mãi mới mua được một chiếc radio loại National của Nhật là sang lắm rồi! Nó không chỉ là “gia tài” mà còn là nguồn sống, là niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm tin… “Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc…”. Nghe rung cảm lắm, xúc động lắm!... Khi thoát ly gia đình tham gia cách mạng chống Mỹ cứu nước - ở chiến trường tôi bị sốt rét dai dẳng một thời gian dài, nên được trên đưa ra miền Bắc để điều trị năm 1971. Tại Hà Nội tôi tranh thủ đến Nhà xuất bản Văn Học - 49 Trần Hưng Đạo - Hà Nội để thăm dò về bản thảo tiểu thuyết của tôi gửi ra theo đường giao liên từ 1966… Nhà xuất bản bảo bản thảo của tôi đang ở chỗ Tiểu Ban Văn Nghệ Miền Nam - Thuộc Hội Liên hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam. Tại sảnh đường trụ sở Hội Liên hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam - 51 Trần Hưng Đạo - tôi bất ngờ gặp nhạc sĩ Văn Cao - tác giả Quốc Ca Việt Nam. Tôi chân thành bày tỏ niềm hân hoan xúc động và chia sẻ với anh về việc nhân dân nửa nước phía Nam - trong đó có tôi - đã lén nghe Quốc Ca Việt Nam như thế nào… Nhạc sĩ Văn Cao xúc động không kìm được nước mắt. Từ đó tôi thỉnh thoảng đến thăm anh tại nhà riêng trên phố Nguyễn Thượng Hiền - Hà Nội - Tôi nói với anh rằng tại miền Nam Việt Nam tôi đã đọc được một số bài thơ và truyện ngắn của anh. Chỉ riêng những tác phẩm mỹ thuật hội họa - lúc này đến nhà anh tôi mới được thưởng thức. Trong số những thơ văn của Văn Cao tôi đọc được trước đây tại Huế và tại Sài Gòn có bài thơ Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc viết về nạn chết đói năm 1945 - bài thơ cứ ám ảnh tôi không chỉ tứ thơ, mà nhiều hơn thế, là ngữ điệu… Anh đã kể cho tôi nghe rằng chính những ngày tang thương chết chóc vì đói khổ ấy anh đã viết TIẾN QUÂN CA về sau trở thành QUỐC CA VIỆT NAM. Tôi đã đem những điều nghe được từ nhạc sĩ Văn Cao chia sẻ với những đồng đội đồng chí của mình cũng từ chiến trường miền Nam ra đang nằm điều trị bệnh cùng tôi tại bệnh viện E - Ai cũng xúc động nghẹn ngào. Chuẩn bị trở lại chiến trường niềm Nam, tôi đến thăm Văn Cao, chào tạm biệt và xin bứt của anh một sợi tóc bạc…

Năm 1987, Văn Cao đến Huế. Anh đã viết bài thơ Huế Xưa:

Về Huế xưa
Đường nối mưa dài
Về phố xưa
Nhìn phố mưa buồn
(…)
Lòng phố lòng người
Giọt người chia ly
Giọt người yêu thương
Giọt nào không vương
Giọt người bơ vơ
Giọt người theo mưa về phố
(…)

Tháng 6/1988 bài thơ này được đưa vào tập thơ LÁ (Nhà xuất bản Tác phẩm Mới) anh gởi về Huế tặng tôi. Điều làm tôi bất ngờ là lần đầu tiên trong đời Văn Cao mới in riêng được một tập thơ (!) với lời đề tặng:

Ôi Hà Khánh Linh
Gửi lại em tập thơ đầu tay
Một trái cây muộn.
14.6.1988
Văn Cao

Bìa tập thơ Lá và bút tích nhạc sĩ Văn Cao tặng nhà văn Hà Khánh Linh

Lúc bấy giờ tôi đang làm ở Tạp chí Sông Hương. Năm 1992 tôi đích thân ra Hà Nội đề nghị anh viết những gì đã kể cho tôi nghe dạo trước - bối cảnh về sự ra đời của Quốc Ca Việt Nam - Nhạc sĩ Văn Cao vui vẻ nhận lời. Và Tạp chí Sông Hương số tháng 9/1992 đã trân trọng đăng bài Tại Sao Tôi Viết Tiến Quân Ca của Văn Cao.

Sau đây xin trích vài đoạn trong bài viết này của thi sĩ - họa sĩ - nhạc sĩ Văn Cao:

“Sau triển lãm Duy Nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi, tuy được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh - Nhà Khai Trí Tiến Đức - và được các báo khen ngợi nhưng cũng không bán nổi (…) Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó, dù đã trình diễn nhiều lần từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn (…) Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước (…).

- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?

- Được.

- Ngày mai bắt đầu nhận công tác, và nhận phụ cấp hàng tháng (…) Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo. Khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta!

Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì để nói. Tìm một âm thanh đầu tiên.

(…) Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền (…) Ở đây thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói đi về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm mất ngủ vì gió mùa luồn vào tung khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình viên chức nghèo khổ, thiếu ăn (…)

Tin từ Nam Định lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê đang đói. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát (…)

Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng:

Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…

(…) Ngày 17.8.1945 tôi đến dự cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Ngọn cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn Nhà Hát lớn xuống. Bài TIẾN QUÂN CA đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi hàng ngàn giọng hát cất lên, vang theo những đoạn sôi nổi. Những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng (…).

Ngày 19.8.1945 một cuộc mít tinh lớn họp tại Quảng trường Nhà Hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát TIẾN QUÂN CA, chào lá cờ đỏ sao vàng (…) Giọng hát của các bạn lẫn với giọng hát của tôi, vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng. Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên, tiếng thét căm thù bọn đế quốc, với sự hào hứng chiến thắng của cách mạng.

Bài TIẾN QUÂN CA đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ hôm đó.

                                                VĂN CAO”.

Tác giả Văn Cao đã khẳng định chủ quyền của TIẾN QUÂN CA là dân tộc Việt Nam độc lập - Vậy có ai còn gì để nói nữa không?

Huế 18/1/2022
 H.K.L
(TCSH44SDB/03-2022)

>> Tại sao tôi viết Tiến quân ca - VĂN CAO

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).