Phù Bài làng xưa

08:59 16/12/2011
BÙI KIM CHI Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức kế gia phong

Ảnh: Lê Vũ Trường Giang

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Đây là hai câu thơ mà ba tôi tâm đắc nhất và đã truyền lại cho tôi - con dâu trưởng của ba. Tôi rất thương và quý ba tôi, một mẫu người nhân hậu hết lòng với việc làng, việc họ. Bản thân ba bao giờ cũng lo giữ trọn hiếu đạo, tuy sống ly hương nhưng không lìa tổ; ba luôn cố gắng làm tròn nghĩa vụ của người kế thừa sự nghiệp của tiên tổ để lại trong một ngôi làng nổi tiếng về địa danh và có truyền thống nổi bật về việc làng, việc họ. Suốt 33 năm làm dâu họ Ngô làng Phù Bài, về thăm làng nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi được ở lại đêm tại làng và được nghiên cứu “Phù Bài sử cương” của ba tôi để lại nhân dịp lạc thành đại trùng tu từ đường Phái Ngô Đức (thờ các ngài Ngô từ đời thứ 13 đến đời thứ 18). Tôi cảm thấy hãnh diện vì mình là con dâu của làng.

Hồi nhỏ, khi chưa lấy chồng, tôi vẫn nghe tiếng thơm về làng Phú Bài. “Phú” chứ không phải “Phù”, nhưng đến khi về làm dâu của làng thì tôi mới vỡ lẽ ra tên làng là “Phù Bài”. Theo lời ba tôi, cụ Ngô Đức Đoàn đích tôn đời thứ 18, con trai trưởng của cụ Tự Thừa Ngô Đức Trác cho biết sở dĩ làng có tên là Phù Bài vì Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân, vị tổ đầu tiên sáng lập ra làng là một đạo sư có đặc tài phù phép, thường dùng oai linh Thần phủ, Linh phù, Lệnh bài để trừ gian tặc và ma quỷ hãm hại dân làng. Công lao to lớn của Ngài đã khắc sâu vào tâm tư, tình cảm của dân làng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Làng Phù Bài nằm ở vị trí cực nam huyện Hương Thủy và phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Phía đông giáp sông Lợi Giang và các làng Tân Tô, Tô Đà, Lương Văn… Phía tây giáp dãy Trường Sơn có nhiều núi cao, đặc biệt có hòn Thất Sơn thường gọi là núi Quách. Tục truyền khi mới lập làng, các vị thủy tổ khai sinh ra làng đi tìm sắt để xây dựng ở núi Quách cách làng chừng 2km thì gặp một ông lão chỉ cho chỗ đào sắt. Đào được sắt, các vị mừng rỡ hỏi danh tánh lão ông và được biết ông người Hồ quốc. Một thời gian sau ông lão đi đâu không rõ, dân làng thời ấy thường gọi ông là “Ngài Đại tài”. Theo lời ba tôi, trong bản văn chữ triện (ô vuông) có đề cập đến Ngài Đại tài, người tỉnh Hồ Bắc bên Trung Hoa và thuộc dòng họ Ngô. Về sau các đời con cháu liên tiếp trong làng trước khi đi làm sắt đều có thiết lập bàn thờ để tế trời đất và khấn: “Thái Thượng Huyền Nguyên - Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ quân”.

Phía Bắc của làng có truông cát rộng, tiếp giáp địa phận các làng Thần Phù, Lang Xá, Văn Giang, Dạ Lê Thượng, Thanh Thủy Thượng, Lương Hà, Lương Miêu. Phía Nam giáp làng An Nong huyện Phú Lộc. Địa thế làng rộng mênh mông, diện tích khoảng chừng 38km2, tức hơn 7.600 mẫu đất (mỗi mẫu 4.900m2). Làng có nhiều cát sạn, khai thác mấy cũng không hết, còn cho các vùng lân cận sử dụng.

Sông Phù Bài ngày xưa còn có tên là sông Cừ Giang vì có nhiều cây cừ to lớn rễ mọc tua tủa hai bên mé sông. Sông chảy ngang giữa làng thì chia làm hai chảy qua bàu ruộng Nhị Thiên Mẫu rồi phân thành hai xứ ruộng bàu Đông và ruộng bàu Tây, chảy tiếp ra sông Lợi Giang, xuống đầm Hà Trung kế phá Cầu Hai rồi đổ ra biển Đông qua cửa Tư Hiền. Hàng năm, dân làng ra sức đắp đê bao vòng quanh bàu ruộng Nhị Thiên Mẫu để làm ranh giới và ngăn ngừa lũ lụt, nước mặn từ đầm Hà Trung tràn vào đồng ruộng làm thiệt hại mùa màng. Sông Phù Bài có nguồn lợi rất lớn, cung cấp nhiều cá tôm đủ thức ăn cho dân làng quanh năm.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Đình làng Phù Bài
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Nhà thờ họ Ngô
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Cổng nhà thờ họ Ngô

Với địa thế như vậy, theo ba tôi thì làng Phù Bài có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển về văn hóa và xã hội. Về văn hóa, lớp học đầu tiên của làng đặt tại nhà tăng của Ngài Đại tông, sau đó làng mới bắt đầu xây dựng một ngôi trường bằng ngói có 3 lớp học bên cạnh đình làng, lúc đầu chỉ có 20 học sinh, dần dần lên đến 50 học sinh và phát triển dần thành một trường học có 5 lớp vào năm 1945. Đến năm 1954, làng xây cất thêm 3 phòng học nữa để hoàn chỉnh một trường tiểu học có đủ phòng ốc và bàn ghế cho học sinh ngồi. Năm 1962, làng mở thêm một trường trung học đệ nhất cấp (trung học cơ sở bây giờ) với 300 học sinh ban đầu. Đa số học sinh học hết trường làng thì lên huyện hoặc tỉnh để học tiếp trường trung học đệ nhị cấp (trung học phổ thông). Tốt nghiệp được tú tài toàn phần thì theo học các trường Đại học ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Con cháu đời nay của làng có nhiều người đỗ đạt được học vị cao: kỹ sư, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư… Để khám chữa bệnh cho dân, năm 1958, trong làng mới bắt đầu xây dựng được một nhà bảo sanh bằng ngói với 10 giường do ngân quỹ của Hội Phước thiện bảo sanh xã. Công trình này được khởi công xây dựng dưới sự giám sát của ông hội trưởng là cụ Thất phẩm Ngô Đức Tháo. Về sau, nhà bảo sanh này được cải tiến thành bệnh xá khang trang với 20 giường nằm cho bệnh nhân và 10 giường nằm cho sản phụ, có thêm phòng khám bệnh, phòng phát thuốc và có y sĩ điều trị.

Ngày xưa, dân làng họp chợ vào buổi chiều trên một khu đất cạnh đình làng bên sông. Năm 1947, chợ được dời về họp trên một đám đất gần đầu cầu quốc lộ về phía bắc. Đến năm 1954, thấy khu đất họp chợ chật hẹp nên ông xã trưởng Ngô Phước Truyền đã cho dời chợ sang địa điểm ở phía nam cầu quốc lộ. Nơi đây, đường sá giao thông tiện lợi nên dân cư các vùng lân cận như Tô Đà, Tân Tô, Nong, Truồi… đến họp chợ đông đúc; thậm chí có bạn hàng ở Huế mang hàng hóa, vải vóc, áo quần về bán; lại có cả bạn hàng ở đầm Cầu Hai mang cá, tôm tươi đến bán rất đông đảo. Chợ Phù Bài trở thành khu thị tứ lớn phồn vinh nức tiếng một vùng.

Đã lâu đời, làng có một ngôi chùa bằng ngói ở đầu làng (ấp 7), phong cảnh ở đây thanh u, tịnh mịch, gần núi, cạnh sông, cách xa nhà ở để thờ Đức Phật tổ. Hàng ngày có một thầy tăng tụng kinh niệm Phật. Làng dành một mẫu ruộng để cúng lễ hàng năm như lễ Phật đản, lễ Thành đạo, lễ Vu lan, các ngày vía Phật và rằm tứ quý. Đến năm 1960, khuôn hội Phật giáo xã được thành lập và đã xây cất “Niệm Phật đường” bằng ngói cao ráo, rộng rãi, khang trang giữa làng cạnh đường quốc lộ để phật tử dễ dàng đến lễ bái, có một vị đại đức trụ trì niệm Phật. Xưa làng Phù Bài không có một người Công giáo nào, đến năm 1928 có một đức cha đến truyền đạo tên là cha Bá. Khi đó trong làng mới có 3, 4 gia đình theo đạo Công giáo. Sau đó các cha cố Thiên Chúa giáo về làng xin sở đất tại xứ Kênh Giàng để xây nhà thờ truyền đạo và con chiên đến lễ.

Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, làng Phù Bài được xây dựng một phi trường trên một bãi truông cát lớn, rộng hơn 3km, dài 4km. Đây là một phi trường có hạng ở Việt Nam cách thành phố Huế 13km. Cũng nhờ vậy mà người trong nước cũng như nước ngoài đã biết đến địa danh Phù Bài, quê tôi. Tôi cảm thấy tự hào về đất nước tôi, về làng Phù Bài quê hương tôi với truyền thống vẻ vang của dòng họ Ngô mở đầu là Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân. Ngày ấy, Ngài luyện Tiên phù, dạo chơi miền sơn thủy, thấy vùng đất Phù Bài có bề thế đẹp, non nước hữu tình, địa thế rộng lớn, có thể sinh cơ lập nghiệp được lâu dài, vĩnh viễn nên ở luôn tại đất Việt dựng cõi đắp bờ, khai khẩn đất hoang để mở làng. Lúc đầu rừng núi còn hoang vu, cây cối um tùm, gian tặc, tà ma còn lẩn trốn nhiều nơi, thú dữ thường hay quấy nhiễu dân làng, phá hoại mùa màng. Với pháp thuật cao cường, mưu chước, Ngài mới tiêu trừ được gian tặc, thú dữ, đem lại cuộc sống an lành, hạnh phúc cho dân làng. Do đó dân làng rất biết ơn Ngài và ca tụng Ngài qua hai câu ca dao truyền đời :

Đức Ông thiệt đấng có tài
Phép cao đuổi tặc chạy dài khiếp oai


Ngày xưa, hàng năm, khi tế Giang sơn và Thiên thần xong thì làng sắm trầu rượu, lễ vật làm lễ tạ ơn Ngài đã có công đầu trong việc sáng lập và gây dựng cơ đồ cho làng. Sau khi Ngài thọ chung, làng lập điện thờ Ngài do Tự Thừa phụng tự, có trùm gia tơ lo lễ vật tế lễ và 2 từ phu trông giữ điện thờ.

Làng tôi nổi tiếng về việc thờ tự, lễ nghi. Theo gia phả dòng họ Ngô thì kế thừa Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là các Ngài truyền đời kế tiếp: Ngài Khai canh đại tông, Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn, Ngài Dự bổn thổ khai khẩn và các Ngài Thủy tổ các tộc. Việc thờ tự các Ngài, làng tôi phân công phụng tự như sau: Ngài Bổn thổ Thành hoàng do Tự thừa phụng tự (nhiệm kỳ của Tự thừa là từ 4 đến 5 năm). Ngài Khai canh đại tông cho Chánh trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Chánh trưởng là 3 đến 4 năm). Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn. Ngài Dự bổn thổ khai khẩn do Hương trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Hương trưởng là 3 đến 4 năm) và Ngài Thủy thổ các tộc do Tộc trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Tộc trưởng là 2 đến 3 năm). Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là một bậc “Nhân thần” đem lại hạnh phúc cho dân làng, được tôn phong công thần “Hộ Quốc Tý Dân”, được triều đình liệt vào tự điển và trải qua sáu triều đại sắc phong, Ngài được tặng Quang ý Trung đẳng Thần. Ông nội tôi, cụ Tự thừa Ngô Đức Trác phụng tự Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân được hai nhiệm kỳ. Theo lời ba tôi, làm việc làng, việc họ rất công phu, chí công, vô tư và nhất là phải có cái tâm thì mới đảm đương được công việc; phải làm ruộng hương hỏa có nếp gạo để bày cỗ tế tự, nuôi heo để giỗ chạp hàng năm, hội họp làng họ. Công việc này phải trải qua hàng chục năm mới thành thục được. Theo tục lệ của làng, Tự thừa, Chánh trưởng, Hương trưởng, Tộc trưởng khi nhậm chức phải thiết lễ yết kiến thủy tổ và làm tiệc khao đãi làng xóm, họ hàng và nhất là phải một lòng phụng tự các Ngài chu đáo.

Điện thờ các Ngài tọa lạc tại xứ Thành Võ gần lăng mộ. Dưới triều Nguyễn, ngôi chính điện được tu tạo lại bằng ngói âm dương, ba gian, hai chái; có tiền đường, hậu chẫm. Phía trước có xây cửa tam quan, trụ biểu, la thành; có hồ thủy tạ, cây cối xanh tươi. Trên nóc tiền đường có khắc bốn chữ “Hiển Hách Anh Linh”.

Ngoài việc phụng thờ các Ngài, hàng năm làng còn tổ chức ba đại lễ là tết Nguyên Đán, Đại tế Kỳ phúc và lễ Thanh minh.

Trải qua bao thế kỷ, điện thờ các Ngài vẫn được con cháu truyền đời phụng tự chu đáo và trùng tu nhiều lần, trở thành một ngôi điện uy nghi, khang trang, đẹp đẽ. Đây là di sản tinh thần vô cùng quý báu của dòng họ Ngô làng Phù Bài.

Đêm nay, ở lại đây tại ngôi làng Phù Bài trong nhà thờ Phái Ngô Đức, lòng tôi bồi hồi, xúc động. Ngày mai, Phái tổ chức lạc thành đại trùng tu từ đường. Nhìn ba gian điện thờ uy nghi, sáng rực đèn hoa, tôi chạnh nhớ đến ba tôi. Ba ơi! Uống nước nhớ nguồn. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ Ngô làng Phù Bài, chúng con đã thực hiện đầy đủ di bút của ba để lại. Xin mượn lời thơ của ba tôi - cụ Phù Sơn Ngô Đức Đoàn để chấm dứt bài này:

Phù Bài có động Sơn Phèn
Có đồi Ngũ Nhạc có dòng Cừ Giang
Có hòn núi Thiết danh vang
Có rừng Thuận trực, có truông cát dài
Bảy ngàn sáu mẫu hoang khai
Hai ngàn hai mẫu đất đai ruộng đồng
Đông tây hai giáp mêng mông
Lòng Dân muôn thuở nhớ công Thành hoàng.


11.2011
B.K.C
(274/12-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!