Phù Bài làng xưa

08:59 16/12/2011
BÙI KIM CHI Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức kế gia phong

Ảnh: Lê Vũ Trường Giang

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Đây là hai câu thơ mà ba tôi tâm đắc nhất và đã truyền lại cho tôi - con dâu trưởng của ba. Tôi rất thương và quý ba tôi, một mẫu người nhân hậu hết lòng với việc làng, việc họ. Bản thân ba bao giờ cũng lo giữ trọn hiếu đạo, tuy sống ly hương nhưng không lìa tổ; ba luôn cố gắng làm tròn nghĩa vụ của người kế thừa sự nghiệp của tiên tổ để lại trong một ngôi làng nổi tiếng về địa danh và có truyền thống nổi bật về việc làng, việc họ. Suốt 33 năm làm dâu họ Ngô làng Phù Bài, về thăm làng nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi được ở lại đêm tại làng và được nghiên cứu “Phù Bài sử cương” của ba tôi để lại nhân dịp lạc thành đại trùng tu từ đường Phái Ngô Đức (thờ các ngài Ngô từ đời thứ 13 đến đời thứ 18). Tôi cảm thấy hãnh diện vì mình là con dâu của làng.

Hồi nhỏ, khi chưa lấy chồng, tôi vẫn nghe tiếng thơm về làng Phú Bài. “Phú” chứ không phải “Phù”, nhưng đến khi về làm dâu của làng thì tôi mới vỡ lẽ ra tên làng là “Phù Bài”. Theo lời ba tôi, cụ Ngô Đức Đoàn đích tôn đời thứ 18, con trai trưởng của cụ Tự Thừa Ngô Đức Trác cho biết sở dĩ làng có tên là Phù Bài vì Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân, vị tổ đầu tiên sáng lập ra làng là một đạo sư có đặc tài phù phép, thường dùng oai linh Thần phủ, Linh phù, Lệnh bài để trừ gian tặc và ma quỷ hãm hại dân làng. Công lao to lớn của Ngài đã khắc sâu vào tâm tư, tình cảm của dân làng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Làng Phù Bài nằm ở vị trí cực nam huyện Hương Thủy và phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Phía đông giáp sông Lợi Giang và các làng Tân Tô, Tô Đà, Lương Văn… Phía tây giáp dãy Trường Sơn có nhiều núi cao, đặc biệt có hòn Thất Sơn thường gọi là núi Quách. Tục truyền khi mới lập làng, các vị thủy tổ khai sinh ra làng đi tìm sắt để xây dựng ở núi Quách cách làng chừng 2km thì gặp một ông lão chỉ cho chỗ đào sắt. Đào được sắt, các vị mừng rỡ hỏi danh tánh lão ông và được biết ông người Hồ quốc. Một thời gian sau ông lão đi đâu không rõ, dân làng thời ấy thường gọi ông là “Ngài Đại tài”. Theo lời ba tôi, trong bản văn chữ triện (ô vuông) có đề cập đến Ngài Đại tài, người tỉnh Hồ Bắc bên Trung Hoa và thuộc dòng họ Ngô. Về sau các đời con cháu liên tiếp trong làng trước khi đi làm sắt đều có thiết lập bàn thờ để tế trời đất và khấn: “Thái Thượng Huyền Nguyên - Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ quân”.

Phía Bắc của làng có truông cát rộng, tiếp giáp địa phận các làng Thần Phù, Lang Xá, Văn Giang, Dạ Lê Thượng, Thanh Thủy Thượng, Lương Hà, Lương Miêu. Phía Nam giáp làng An Nong huyện Phú Lộc. Địa thế làng rộng mênh mông, diện tích khoảng chừng 38km2, tức hơn 7.600 mẫu đất (mỗi mẫu 4.900m2). Làng có nhiều cát sạn, khai thác mấy cũng không hết, còn cho các vùng lân cận sử dụng.

Sông Phù Bài ngày xưa còn có tên là sông Cừ Giang vì có nhiều cây cừ to lớn rễ mọc tua tủa hai bên mé sông. Sông chảy ngang giữa làng thì chia làm hai chảy qua bàu ruộng Nhị Thiên Mẫu rồi phân thành hai xứ ruộng bàu Đông và ruộng bàu Tây, chảy tiếp ra sông Lợi Giang, xuống đầm Hà Trung kế phá Cầu Hai rồi đổ ra biển Đông qua cửa Tư Hiền. Hàng năm, dân làng ra sức đắp đê bao vòng quanh bàu ruộng Nhị Thiên Mẫu để làm ranh giới và ngăn ngừa lũ lụt, nước mặn từ đầm Hà Trung tràn vào đồng ruộng làm thiệt hại mùa màng. Sông Phù Bài có nguồn lợi rất lớn, cung cấp nhiều cá tôm đủ thức ăn cho dân làng quanh năm.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Đình làng Phù Bài
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Nhà thờ họ Ngô
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Cổng nhà thờ họ Ngô

Với địa thế như vậy, theo ba tôi thì làng Phù Bài có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển về văn hóa và xã hội. Về văn hóa, lớp học đầu tiên của làng đặt tại nhà tăng của Ngài Đại tông, sau đó làng mới bắt đầu xây dựng một ngôi trường bằng ngói có 3 lớp học bên cạnh đình làng, lúc đầu chỉ có 20 học sinh, dần dần lên đến 50 học sinh và phát triển dần thành một trường học có 5 lớp vào năm 1945. Đến năm 1954, làng xây cất thêm 3 phòng học nữa để hoàn chỉnh một trường tiểu học có đủ phòng ốc và bàn ghế cho học sinh ngồi. Năm 1962, làng mở thêm một trường trung học đệ nhất cấp (trung học cơ sở bây giờ) với 300 học sinh ban đầu. Đa số học sinh học hết trường làng thì lên huyện hoặc tỉnh để học tiếp trường trung học đệ nhị cấp (trung học phổ thông). Tốt nghiệp được tú tài toàn phần thì theo học các trường Đại học ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Con cháu đời nay của làng có nhiều người đỗ đạt được học vị cao: kỹ sư, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư… Để khám chữa bệnh cho dân, năm 1958, trong làng mới bắt đầu xây dựng được một nhà bảo sanh bằng ngói với 10 giường do ngân quỹ của Hội Phước thiện bảo sanh xã. Công trình này được khởi công xây dựng dưới sự giám sát của ông hội trưởng là cụ Thất phẩm Ngô Đức Tháo. Về sau, nhà bảo sanh này được cải tiến thành bệnh xá khang trang với 20 giường nằm cho bệnh nhân và 10 giường nằm cho sản phụ, có thêm phòng khám bệnh, phòng phát thuốc và có y sĩ điều trị.

Ngày xưa, dân làng họp chợ vào buổi chiều trên một khu đất cạnh đình làng bên sông. Năm 1947, chợ được dời về họp trên một đám đất gần đầu cầu quốc lộ về phía bắc. Đến năm 1954, thấy khu đất họp chợ chật hẹp nên ông xã trưởng Ngô Phước Truyền đã cho dời chợ sang địa điểm ở phía nam cầu quốc lộ. Nơi đây, đường sá giao thông tiện lợi nên dân cư các vùng lân cận như Tô Đà, Tân Tô, Nong, Truồi… đến họp chợ đông đúc; thậm chí có bạn hàng ở Huế mang hàng hóa, vải vóc, áo quần về bán; lại có cả bạn hàng ở đầm Cầu Hai mang cá, tôm tươi đến bán rất đông đảo. Chợ Phù Bài trở thành khu thị tứ lớn phồn vinh nức tiếng một vùng.

Đã lâu đời, làng có một ngôi chùa bằng ngói ở đầu làng (ấp 7), phong cảnh ở đây thanh u, tịnh mịch, gần núi, cạnh sông, cách xa nhà ở để thờ Đức Phật tổ. Hàng ngày có một thầy tăng tụng kinh niệm Phật. Làng dành một mẫu ruộng để cúng lễ hàng năm như lễ Phật đản, lễ Thành đạo, lễ Vu lan, các ngày vía Phật và rằm tứ quý. Đến năm 1960, khuôn hội Phật giáo xã được thành lập và đã xây cất “Niệm Phật đường” bằng ngói cao ráo, rộng rãi, khang trang giữa làng cạnh đường quốc lộ để phật tử dễ dàng đến lễ bái, có một vị đại đức trụ trì niệm Phật. Xưa làng Phù Bài không có một người Công giáo nào, đến năm 1928 có một đức cha đến truyền đạo tên là cha Bá. Khi đó trong làng mới có 3, 4 gia đình theo đạo Công giáo. Sau đó các cha cố Thiên Chúa giáo về làng xin sở đất tại xứ Kênh Giàng để xây nhà thờ truyền đạo và con chiên đến lễ.

Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, làng Phù Bài được xây dựng một phi trường trên một bãi truông cát lớn, rộng hơn 3km, dài 4km. Đây là một phi trường có hạng ở Việt Nam cách thành phố Huế 13km. Cũng nhờ vậy mà người trong nước cũng như nước ngoài đã biết đến địa danh Phù Bài, quê tôi. Tôi cảm thấy tự hào về đất nước tôi, về làng Phù Bài quê hương tôi với truyền thống vẻ vang của dòng họ Ngô mở đầu là Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân. Ngày ấy, Ngài luyện Tiên phù, dạo chơi miền sơn thủy, thấy vùng đất Phù Bài có bề thế đẹp, non nước hữu tình, địa thế rộng lớn, có thể sinh cơ lập nghiệp được lâu dài, vĩnh viễn nên ở luôn tại đất Việt dựng cõi đắp bờ, khai khẩn đất hoang để mở làng. Lúc đầu rừng núi còn hoang vu, cây cối um tùm, gian tặc, tà ma còn lẩn trốn nhiều nơi, thú dữ thường hay quấy nhiễu dân làng, phá hoại mùa màng. Với pháp thuật cao cường, mưu chước, Ngài mới tiêu trừ được gian tặc, thú dữ, đem lại cuộc sống an lành, hạnh phúc cho dân làng. Do đó dân làng rất biết ơn Ngài và ca tụng Ngài qua hai câu ca dao truyền đời :

Đức Ông thiệt đấng có tài
Phép cao đuổi tặc chạy dài khiếp oai


Ngày xưa, hàng năm, khi tế Giang sơn và Thiên thần xong thì làng sắm trầu rượu, lễ vật làm lễ tạ ơn Ngài đã có công đầu trong việc sáng lập và gây dựng cơ đồ cho làng. Sau khi Ngài thọ chung, làng lập điện thờ Ngài do Tự Thừa phụng tự, có trùm gia tơ lo lễ vật tế lễ và 2 từ phu trông giữ điện thờ.

Làng tôi nổi tiếng về việc thờ tự, lễ nghi. Theo gia phả dòng họ Ngô thì kế thừa Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là các Ngài truyền đời kế tiếp: Ngài Khai canh đại tông, Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn, Ngài Dự bổn thổ khai khẩn và các Ngài Thủy tổ các tộc. Việc thờ tự các Ngài, làng tôi phân công phụng tự như sau: Ngài Bổn thổ Thành hoàng do Tự thừa phụng tự (nhiệm kỳ của Tự thừa là từ 4 đến 5 năm). Ngài Khai canh đại tông cho Chánh trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Chánh trưởng là 3 đến 4 năm). Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn. Ngài Dự bổn thổ khai khẩn do Hương trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Hương trưởng là 3 đến 4 năm) và Ngài Thủy thổ các tộc do Tộc trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Tộc trưởng là 2 đến 3 năm). Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là một bậc “Nhân thần” đem lại hạnh phúc cho dân làng, được tôn phong công thần “Hộ Quốc Tý Dân”, được triều đình liệt vào tự điển và trải qua sáu triều đại sắc phong, Ngài được tặng Quang ý Trung đẳng Thần. Ông nội tôi, cụ Tự thừa Ngô Đức Trác phụng tự Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân được hai nhiệm kỳ. Theo lời ba tôi, làm việc làng, việc họ rất công phu, chí công, vô tư và nhất là phải có cái tâm thì mới đảm đương được công việc; phải làm ruộng hương hỏa có nếp gạo để bày cỗ tế tự, nuôi heo để giỗ chạp hàng năm, hội họp làng họ. Công việc này phải trải qua hàng chục năm mới thành thục được. Theo tục lệ của làng, Tự thừa, Chánh trưởng, Hương trưởng, Tộc trưởng khi nhậm chức phải thiết lễ yết kiến thủy tổ và làm tiệc khao đãi làng xóm, họ hàng và nhất là phải một lòng phụng tự các Ngài chu đáo.

Điện thờ các Ngài tọa lạc tại xứ Thành Võ gần lăng mộ. Dưới triều Nguyễn, ngôi chính điện được tu tạo lại bằng ngói âm dương, ba gian, hai chái; có tiền đường, hậu chẫm. Phía trước có xây cửa tam quan, trụ biểu, la thành; có hồ thủy tạ, cây cối xanh tươi. Trên nóc tiền đường có khắc bốn chữ “Hiển Hách Anh Linh”.

Ngoài việc phụng thờ các Ngài, hàng năm làng còn tổ chức ba đại lễ là tết Nguyên Đán, Đại tế Kỳ phúc và lễ Thanh minh.

Trải qua bao thế kỷ, điện thờ các Ngài vẫn được con cháu truyền đời phụng tự chu đáo và trùng tu nhiều lần, trở thành một ngôi điện uy nghi, khang trang, đẹp đẽ. Đây là di sản tinh thần vô cùng quý báu của dòng họ Ngô làng Phù Bài.

Đêm nay, ở lại đây tại ngôi làng Phù Bài trong nhà thờ Phái Ngô Đức, lòng tôi bồi hồi, xúc động. Ngày mai, Phái tổ chức lạc thành đại trùng tu từ đường. Nhìn ba gian điện thờ uy nghi, sáng rực đèn hoa, tôi chạnh nhớ đến ba tôi. Ba ơi! Uống nước nhớ nguồn. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng họ Ngô làng Phù Bài, chúng con đã thực hiện đầy đủ di bút của ba để lại. Xin mượn lời thơ của ba tôi - cụ Phù Sơn Ngô Đức Đoàn để chấm dứt bài này:

Phù Bài có động Sơn Phèn
Có đồi Ngũ Nhạc có dòng Cừ Giang
Có hòn núi Thiết danh vang
Có rừng Thuận trực, có truông cát dài
Bảy ngàn sáu mẫu hoang khai
Hai ngàn hai mẫu đất đai ruộng đồng
Đông tây hai giáp mêng mông
Lòng Dân muôn thuở nhớ công Thành hoàng.


11.2011
B.K.C
(274/12-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ XUÂN CẨM 

    Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.

  • KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

    LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

  • KIMO 

    Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.

  • LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.

  • MAI KHẮC ỨNG  

    Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.

  • LÊ QUANG THÁI

    Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                            Tùy bút

    Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.

  • PHẠM THÁI ANH THƯ

    Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN 

    Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    1. Đôi điều tản mạn về Liễu
    Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.

  • TRƯỜNG PHƯỚC  

    Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.

  • LƯU THỦY
     
    KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)

  • LÊ VĂN LÂN

    Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.

  • THANH TÙNG

    Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Chùa Hoàng giác là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng nhất xứ Đàng Trong, được đích thân chúa Nguyễn Phúc Chu cho tái thiết, ban sắc tứ vào năm 1721. Tuy nhiên, vì trải qua binh lửa chiến tranh chùa đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Dựa trên nguồn sử liệu và kết quả điều tra thực tế, chúng tôi cố gắng để phác thảo phần nào nguồn gốc ra đời cũng như tầm quan trọng của ngôi chùa này trong đời sống văn hóa cư dân Huế xưa với một nếp sống mang đậm dấu ấn Phật giáo.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cách đây đúng 500 năm (1514 - 2014), tại ngôi làng ven sông Kiến Giang “nơi cây vườn và dòng nước cùng với các thôn xóm xung quanh hợp thành một vùng biếc thẳm giữa màu xanh mênh mông của cánh đồng hai huyện”(1) thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Dương Văn An, sau này đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thư được sinh ra đời.

  • DƯƠNG ĐÌNH CHÂU – TRẦN HOÀNG CẨM LAI

    Danh lam thắng cảnh, nơi cảnh đẹp có chùa nổi tiếng, khái niệm này càng rõ hơn ở Huế.

  • PHẠM HẠNH THƯ

    Du lịch Huế xưa
    Du lịch Huế có một lịch sử thơ ca dân gian gắn liền với những bước phát triển của mình.