Phê bình văn học: hội chứng rên rỉ và đổ thừa

09:55 21/05/2012

INRASARA

(Phê bình phê bình phê bình)

Nhà phê bình Inrasara - Ảnh: laodong

1.

Thời gian qua, các nhà phê bình đã ra công bắt mạch để chỉ ra căn bệnh của phê bình văn học Việt Nam. Họ cũng đã kịp ban cho chúng tên khai sinh:

Phê bình bình và tán, không trên nền tảng mĩ học nào, chỉ bình tán đầy tính may rủi. Phê bình độn giai thoại, ở đó trong một bài viết, nhà phê bình tùy tiện độn vào cơ man giai thoại cũ và mới, rất nhảm. Phê bình chung chung, tránh né, vô thưởng vô phạt, là loại phê bình có thể áp dụng cho mọi nhà thơ, mọi tập thơ mà không sợ bị trật. Phê bình hũ nút, lấy mình làm thước đo văn chương người thiên hạ; cho dù văn chương thiên hạ rộng và cao tới đâu, cứ lấy chuẩn mình ra đo. Phê bình núp bóng, núp bóng và nhân danh. Nhân danh chân lí vĩnh cửu, nhân danh tên tuổi lớn trong lịch sử văn học, lấy cả “phương Đông” ra mà nhân danh. Phê bình bè phái, thể hiện mình cả ở thái độ khen chê, bênh vực hay cáo giác. “Phê bình du kích”, để thỏa mãn tính thù vặt, nhân vụ này đá sang vụ khác, đối tượng muốn đối thoại cũng không thể. Phê bình quan phương, là thứ phê bình hãnh tiến của kẻ đang nắm chặt chân lí trong tay, bao giờ và ở đâu cũng ăn nói ở thế đúng, thế thắng. Phê bình hàng hai, nói theo vì đang kì ăn theo, nói theo để còn ăn theo lâu dài hơn. “Phê bình liếc nhìn” vượt mặt phê bình hàng hai, nó còn biết đi rất nhiều hàng, nhưng chung quy nó thể hiện thói nịnh bợ, uốn ngòi bút để kiếm chác.

Sinh hoạt phê bình của ta ngập tràn các căn bệnh như thế với nhiều biến thái và biến tướng. Lạ, sản phẩm hạ sinh từ bệnh viện kia cuối cùng được tập hợp lại trong tập sách vài trăm trang, rồi ta tự tin kêu đó là “tập lí luận - phê bình”: Cảm nhận, Cảm luận, Tản mạn... gì gì đó. Đọc suốt tác phẩm, độc giả không thấy đâu là tư tưởng nền tảng của nhà phê bình, mà chỉ nghe bao nhiêu giai thoại vui vui, trích đoạn tùy tiện, cùng vô số ý kiến nói theo, nói dựa từng xuất hiện nhan nhản trên đủ loại báo phổ thông.

2.

Đó là phê bình tác phẩm, còn phê bình phê bình thì sao? Vẫn mấy căn bệnh từ hình thức phê bình trước truyền nhiễm sang, lây lan từ người này qua người khác. Phê bình tác phẩm, chỉ cần sở hữu ít khiếu thẩm mĩ, thêm cách diễn đạt có duyên, là đủ để người đọc dừng lại với bài phê bình, ít ra - không dị ứng với nó; thì phê bình phê bình đòi hỏi cao đến thao tác đầy lí tính của người viết. Đằng này, ta muôn năm mơ hồ.

Tôi nói điều này có thể buồn một chút, nhưng từ lâu tôi có cảm giác nền phê bình chân chính đã chết rồi (…) Bây giờ thì chúng ta thấy đấy, niềm tin với các bài phê bình trên báo chí giảm xuống, thậm chí, bạn đọc không còn quan tâm nhiều nữa Làm thế nào để hạn chế bớt những bài điểm sách sơ sài, những bài PR vì mục đích lợi nhuận của nhà sách?(1)

Cảm giác” với “niềm tin” “bạn đọc không còn quan tâm nhiều nữa” thì trên cả… mơ hồ! Còn những “bài điểm sách sơ sài, những bài PR vì mục đích lợi nhuận” của các nhà sách liên can gì đến phê bình? Tất cả chúng tồn tại có lí do chính đáng. Thời nào ở đất nước nào cũng thế, chúng có mặt để bán… sách. Chúng cần thiết trong thị trường chữ nghĩa đòi hỏi tính cạnh tranh cao. Vài trăm tác phẩm văn học ra đời mỗi tháng, ai trách nhiệm quảng bá chúng? - Các bài điểm sách. Cộng đồng than phiền văn hóa đọc xuống cấp; nhà văn ném “đứa con tinh thần” ra thị trường chữ nghĩa, đâu là nơi có thể đưa tin tác phẩm kia đến với công chúng? - Báo chí. Vậy mà ta lại than vãn sự PR này, với lối hiểu từ PR đầy hàm hồ và sai lạc.

Vấn đề là, sách của tác giả nào? Nhà xuất bản kia uy tín tới đâu (nếu nhà xuất bản làm ăn nghiêm túc)? Nhà phê bình nào dám đánh cược tên tuổi mình để giới thiệu nó? Và, tờ báo nào đã đăng nó? Không biện biệt để rạch ròi các hoạt động ngoại vi này với phê bình văn học, thì mọi than vãn của ta đều rất trật… mục tiêu. Than thở mơ hồ trật mục tiêu kia lan truyền để trở thành thứ hội chứng, hội chứng than thở. Bởi nhìn đâu ta cũng thấy thủ phạm, nó ở tất cả mọi nơi mà không ở đâu cụ thể.

Chỉ khi phân ranh như thế, ta mới xác định được thủ phạm là “các bài điểm sách sơ sài và các bài PR vì mục đích bán sách” cùng những con tương cận. Xác định và loại trừ, để còn lại là những bài phê bình đích thực. Đâu là bài phê bình như là phê bình?

3.

Cả ở đây nữa, ta cũng bị hội chứng than thở ám. Hết than khóc phê bình nghiệp dư lấn sân phê bình nhà nghề, phê bình chuyên nghiệp tàn tạ hay phê bình chân chính đã chết, ta quay sang rên rỉ về sự “thiếu chuẩn, loạn chuẩn trong phê bình văn học”(2). Loạn chuẩn, ta bắt được tay ngay kẻ để đổ thừa. Thủ phạm không ai khác, đích danh tên “ai cũng có thể làm phê bình được”!

Sự nhiễu loạn, sự đánh tráo giá trị đã trở thành một thực trạng rộng khắp và không dễ gì thay đổi được(1).Theo chúng tôi, dù là phê bình truyền thông thì cũng cần đòi hỏi những tiêu chuẩn về một thứ “chất lượng phê bình” chứ không thể tùy tiện, kiểu ai muốn nói gì thì nói(3).

Chính “ai ai cũng có thể làm phê bình” đã làm cho phê bình nhiễu loạn, mất chuẩn, loạn chuẩn. Vậy “ai ai” kia là ai cần phải bị loại trừ, để ai đó được quyền phê bình? Ai đó là những ai? - Các tên tuổi trong biên chế Viện Văn học? Các vị khoa bảng? Các nhà phê bình lận lưng thẻ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam? Ta, chắc chắn rồi. Và ai nữa? Thế các cây bút tập sự mới nhập làng thì sao? Lại rất mơ hồ.

Toàn cầu hóa, đâu là “chuẩn” để quy chiếu từ đó đánh giá tác phẩm văn chương? Trong triết học, Nietzsche cuồng nộ đập nát bảng giá trị cũ [đang lưu hành] để dựng lên bảng giá trị mới, qua đó tác động rộng lớn đến nền triết học thế giới thế kỉ XX. Bên thơ ca, thần đồng [đích thực] thơ ca Pháp Rimbaud dũng mãnh phá tan mọi chuẩn tắc thơ đương thời để lập nên chuẩn mới, ảnh hưởng cả nền thơ nhân loại sau đó. Sau đổi mới, văn chương tiếng Việt phát triển đa khuynh hướng, đa giọng điệu, đa phong cách, chúng cần đến nhiều chuẩn khác nhau để đánh giá. Khác nhau, thậm chí đối chọi, phản bác nhau.

Thế giới mở, ai dám và ai có thể độc quyền chân lí nghệ thuật? Một tác phẩm vừa đưa ra thị trường, nếu phê bình truyền thống phải chờ đến ngày hôm sau, tuần sau, tháng sau mới thấy xuất hiện bài viết, thì hôm nay đã khác. Chúng nhận được ý kiến khen chê hoặc bị bỏ quên ngay khi vừa ló đầu ra đời. Kịp thời và nhanh nhạy. Nó mang ở tự thân đặc tính của báo chí. Còn hơn cả báo chí, bởi điều mà báo giấy không kham nổi thì báo mạng, website, facebook, blog đảm đương oanh liệt. Có cả không gian mênh mông cho người quan tâm vào cuộc.

Tác phẩm văn chương là một thế giới mở tồn tại vô vàn khoảng trống và những điểm trơn trợt bất định, mời gọi các diễn ngôn khác nhau, từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Các diễn ngôn phát ra qua kinh nghiệm, cảm xúc, tri thức rất khác nhau của bộ phận độc giả khác nhau. Vô danh hay nổi tiếng, chuyên hay không chuyên, mới tập tò hay thâm niên công tác. Trình độ độc giả hôm nay đã được nâng cao, nên thái độ của họ đối với vấn đề văn học đã khác. Họ hết còn thưởng thức tác phẩm thụ động, mà tự tin nói lên cảm nghĩ và phát hiện của riêng mình, sẵn sàng nhảy vào dự phần nhận định và tranh luận.

4.

Thở than phê bình xuống cấp, sa sút, ta luôn đòi hỏi chất lượng tiêu chuẩn ISO cho các bài phê bình.

Trước đây, chúng ta hay nói đùa kiểu “nhà nhà làm thơ, người người làm thơ”, thì bây giờ phê bình trên báo chí cũng nằm trong tình trạng đó”(4).

Sa sút với xuống cấp, lại cũng là nguyên do từ “ai ai” trên. Qua đó hội chứng đổ thừa cho “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” giành thêm mảnh đất mầu mỡ để nhân giống! Tại sao cứ chính nó mà không là thủ phạm nào khác? Cớ sao “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” không phải là cơ hội lớn cho nền văn học phát triển, mà lại làm trở ngại? Nữa, nếu ở đó, ta không phải đồng thanh một kiểu phê bình, mà hãy “kiểu ai nấy nói”, tại sao nỗi đó không phải là cơ may cho nền phê bình, mà lại kéo nó tụt hậu? Nhiều người làm phê bình với nhiều “kiểu” phê bình khác nhau, nhiều cách “phán” khác nhau là điều cần thiết cho đa dạng hóa một nền văn học. Dĩ nhiên, khi các “kiểu” phê bình ấy được đặt trên nền tảng lí luận vững chắc mà không tùy hứng đến tùy tiện.

Ta kêu “thiếu chuẩn”, “loạn chuẩn” vân vân, vậy đâu là “chuẩn” hay “kiểu” phê bình của ta? Nó được đặt trên nền tảng mĩ học nào? Đâu là tang chứng vật chứng để chứng thực cho chuẩn kia? Hay lần nữa ta huy động đâu Hoài Thanh từ thời xa lơ xa lắc? Hoặc lục lại các chuẩn truyền thống còn quá ư mơ hồ, ít nhiều đã lạc thời? Cả ở đây nữa, không phải bản thân ta đang tiếp tục chương trình cảm tính với chung chung, để đóng góp phần mình vào nỗi “loạn chuẩn” kia, sao?

5.

Cuối cùng, quen rên rỉ ỉ ôi người thiên hạ, trong khi chính ta lạc hậu từ đời nảo đời nao mà không tự biết.

Lâu nay, tôi thường có thói quen đọc các bài “phê bình điểm sách” thơ bằng cách đọc dăm bảy câu thơ dẫn chứng. Nếu thấy các dẫn chứng không thuyết phục thì không đọc nữa. Tôi tin không có “bột” thì dù có tán hươu, tán vượn thế nào, cũng không thể “gột” nên “hồ” được. Dần dần, tôi loại bỏ bằng cách không đọc những bài viết kiểu này. Tôi tin nhiều độc giả cũng cách phản ứng giống tôi”(5).

Nhiều độc giả cũng cách phản ứng giống” như thế, không sai. Đó là độc giả của sách giáo khoa cấp Trung học Phổ thông. Viết giáo khoa thư THPT, nhà phê bình buộc phải trích bình những đoạn thơ hay, đẹp theo quy chuẩn đã được thừa nhận rộng rãi. Ở đó, “bình” là chính. Trong khi phê bình ngoài trần gian muôn màu thì khác, hoàn toàn khác.

Tại đây, thứ nhất, có khi nhà phê bình chỉ lôi các câu/ đoạn thơ dở để phê, không mục đích nào khác là bảo vệ luận điểm của mình. Thứ hai, họ có thể dẫn ra các đoạn thơ [họ cho là] hay để luận. Chính điểm này đáng quan tâm hơn cả, vì đoạn trích mà theo quán tính ta cho là “không có bột” nhưng với cách nhìn khác, họ đã “gột nên hồ”, mới đáng giá. Đọc bài phê bình là đọc luận điểm độc đáo cùng lập luận thuyết phục kia của nhà phê bình; các trích đoạn có mặt là cần thiết, nhưng nó chỉ đóng vai phụ.

Lưu trì quán tính lâu đời hay “thói quen đọc các bài “phê bình điểm sách” thơ bằng cách đọc dăm bảy câu thơ dẫn chứng… không thuyết phục” rồi bỏ qua một bài phê bình, là thói tật xấu. Xấu, và lỗi thời. Lỗi thời, bởi - dấn thêm một bước - thứ ba, mỗi hệ mĩ học có cái “hay” khác nhau, chúng bổ sung cho nhau hoặc vượt qua nhau. Nếu đoạn thơ trích dẫn thuộc hệ mĩ học hậu hiện đại, mà ta mãi đứng ở lãnh địa hiện đại dòm qua thấy “không có bột” rồi quay lưng bỏ đi, là vô hình trung ta đóng cửa với chính mình trước cái mới, cái xa lạ. Ta tự thôi học rồi còn gì!

*

Vậy đó, tiếp nhận thành quả người đi trước bắt mạch căn bệnh phê bình từng tàn phá cơ thể văn học Việt Nam, thay vì mổ xẻ mấy ung nhọt kia và cương quyết rũ bỏ chúng, ta đã làm điều vô bổ: than thở với đổ thừa. Than thở và đổ thừa đầy mơ hồ, vừa lầm lạc vừa lỗi thời. Lỗi thời nên, càng lầm lạc. Lầm lạc kéo dài và lây lan đến thành một thứ hội chứng khó chữa trị.

Đối mặt với hiện trạng phê bình kia, nhà phê bình tự trang bị tinh thần và cả thái độ mới. Đòi hỏi trước tiên là nhà phê bình tự thức toàn diện và sâu thẳm về sự yếu kém của bản thân nền phê bình, nhận mặt căn bệnh và cương quyết rũ bỏ chúng.

Tư thế tự do, tự do khỏi mọi ràng buộc định kiến nghệ thuật, ý thức hệ tôn giáo hay chính trị, quyền lợi phe nhóm, quen biết anh chị em bằng hữu. Có cái nhìn toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại: trước và sau 75, trong nước và hải ngoại, chính thống và ngoại biên, dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, trung tâm văn hóa lớn và địa phương,… Phê bình học biết chấp nhận các quan điểm, các tác phẩm không cùng hệ mĩ học mình yêu thích. Hướng về phía tương lai và phía mới - phê bình học biết suy tư trong chiều hướng đưa nền văn học phát triển ở ngày mai, chứ không phải ngược lại, một phê bình sẵn sàng cho thế hệ hôm nay sáng tạo cái mới trong tâm thế mở của thời đại toàn cầu hóa.

Sài Gòn, 31-3-2012
I.R.S.R
(SH279/5-12)



---------------------------------
Các trích dẫn từ báo Văn nghệ trẻ, tháng 2&3-2012: Thiên Sơn (1), Trần Thị Thục (3), Hoàng Thụy Anh (4), Đặng Huy Giang (5), và báo Văn nghệ, ghi chép Tọa đàm tại Viện văn học: “Phê bình văn học - bản chất và đối tượng”, tháng 5-2004 (2).









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!