INRASARA
(Phê bình phê bình phê bình)
Nhà phê bình Inrasara - Ảnh: laodong
1.
Thời gian qua, các nhà phê bình đã ra công bắt mạch để chỉ ra căn bệnh của phê bình văn học Việt Nam. Họ cũng đã kịp ban cho chúng tên khai sinh:
Phê bình bình và tán, không trên nền tảng mĩ học nào, chỉ bình tán đầy tính may rủi. Phê bình độn giai thoại, ở đó trong một bài viết, nhà phê bình tùy tiện độn vào cơ man giai thoại cũ và mới, rất nhảm. Phê bình chung chung, tránh né, vô thưởng vô phạt, là loại phê bình có thể áp dụng cho mọi nhà thơ, mọi tập thơ mà không sợ bị trật. Phê bình hũ nút, lấy mình làm thước đo văn chương người thiên hạ; cho dù văn chương thiên hạ rộng và cao tới đâu, cứ lấy chuẩn mình ra đo. Phê bình núp bóng, núp bóng và nhân danh. Nhân danh chân lí vĩnh cửu, nhân danh tên tuổi lớn trong lịch sử văn học, lấy cả “phương Đông” ra mà nhân danh. Phê bình bè phái, thể hiện mình cả ở thái độ khen chê, bênh vực hay cáo giác. “Phê bình du kích”, để thỏa mãn tính thù vặt, nhân vụ này đá sang vụ khác, đối tượng muốn đối thoại cũng không thể. Phê bình quan phương, là thứ phê bình hãnh tiến của kẻ đang nắm chặt chân lí trong tay, bao giờ và ở đâu cũng ăn nói ở thế đúng, thế thắng. Phê bình hàng hai, nói theo vì đang kì ăn theo, nói theo để còn ăn theo lâu dài hơn. “Phê bình liếc nhìn” vượt mặt phê bình hàng hai, nó còn biết đi rất nhiều hàng, nhưng chung quy nó thể hiện thói nịnh bợ, uốn ngòi bút để kiếm chác.
Sinh hoạt phê bình của ta ngập tràn các căn bệnh như thế với nhiều biến thái và biến tướng. Lạ, sản phẩm hạ sinh từ bệnh viện kia cuối cùng được tập hợp lại trong tập sách vài trăm trang, rồi ta tự tin kêu đó là “tập lí luận - phê bình”: Cảm nhận, Cảm luận, Tản mạn... gì gì đó. Đọc suốt tác phẩm, độc giả không thấy đâu là tư tưởng nền tảng của nhà phê bình, mà chỉ nghe bao nhiêu giai thoại vui vui, trích đoạn tùy tiện, cùng vô số ý kiến nói theo, nói dựa từng xuất hiện nhan nhản trên đủ loại báo phổ thông.
2.
Đó là phê bình tác phẩm, còn phê bình phê bình thì sao? Vẫn mấy căn bệnh từ hình thức phê bình trước truyền nhiễm sang, lây lan từ người này qua người khác. Phê bình tác phẩm, chỉ cần sở hữu ít khiếu thẩm mĩ, thêm cách diễn đạt có duyên, là đủ để người đọc dừng lại với bài phê bình, ít ra - không dị ứng với nó; thì phê bình phê bình đòi hỏi cao đến thao tác đầy lí tính của người viết. Đằng này, ta muôn năm mơ hồ.
Tôi nói điều này có thể buồn một chút, nhưng từ lâu tôi có cảm giác nền phê bình chân chính đã chết rồi (…) Bây giờ thì chúng ta thấy đấy, niềm tin với các bài phê bình trên báo chí giảm xuống, thậm chí, bạn đọc không còn quan tâm nhiều nữa… Làm thế nào để hạn chế bớt những bài điểm sách sơ sài, những bài PR vì mục đích lợi nhuận của nhà sách?(1)
“Cảm giác” với “niềm tin” “bạn đọc không còn quan tâm nhiều nữa” thì trên cả… mơ hồ! Còn những “bài điểm sách sơ sài, những bài PR vì mục đích lợi nhuận” của các nhà sách liên can gì đến phê bình? Tất cả chúng tồn tại có lí do chính đáng. Thời nào ở đất nước nào cũng thế, chúng có mặt để bán… sách. Chúng cần thiết trong thị trường chữ nghĩa đòi hỏi tính cạnh tranh cao. Vài trăm tác phẩm văn học ra đời mỗi tháng, ai trách nhiệm quảng bá chúng? - Các bài điểm sách. Cộng đồng than phiền văn hóa đọc xuống cấp; nhà văn ném “đứa con tinh thần” ra thị trường chữ nghĩa, đâu là nơi có thể đưa tin tác phẩm kia đến với công chúng? - Báo chí. Vậy mà ta lại than vãn sự PR này, với lối hiểu từ PR đầy hàm hồ và sai lạc.
Vấn đề là, sách của tác giả nào? Nhà xuất bản kia uy tín tới đâu (nếu nhà xuất bản làm ăn nghiêm túc)? Nhà phê bình nào dám đánh cược tên tuổi mình để giới thiệu nó? Và, tờ báo nào đã đăng nó? Không biện biệt để rạch ròi các hoạt động ngoại vi này với phê bình văn học, thì mọi than vãn của ta đều rất trật… mục tiêu. Than thở mơ hồ trật mục tiêu kia lan truyền để trở thành thứ hội chứng, hội chứng than thở. Bởi nhìn đâu ta cũng thấy thủ phạm, nó ở tất cả mọi nơi mà không ở đâu cụ thể.
Chỉ khi phân ranh như thế, ta mới xác định được thủ phạm là “các bài điểm sách sơ sài và các bài PR vì mục đích bán sách” cùng những con tương cận. Xác định và loại trừ, để còn lại là những bài phê bình đích thực. Đâu là bài phê bình như là phê bình?
3.
Cả ở đây nữa, ta cũng bị hội chứng than thở ám. Hết than khóc phê bình nghiệp dư lấn sân phê bình nhà nghề, phê bình chuyên nghiệp tàn tạ hay phê bình chân chính đã chết, ta quay sang rên rỉ về sự “thiếu chuẩn, loạn chuẩn trong phê bình văn học”(2). Loạn chuẩn, ta bắt được tay ngay kẻ để đổ thừa. Thủ phạm không ai khác, đích danh tên “ai cũng có thể làm phê bình được”!
Sự nhiễu loạn, sự đánh tráo giá trị đã trở thành một thực trạng rộng khắp và không dễ gì thay đổi được(1). “Theo chúng tôi, dù là phê bình truyền thông thì cũng cần đòi hỏi những tiêu chuẩn về một thứ “chất lượng phê bình” chứ không thể tùy tiện, kiểu ai muốn nói gì thì nói(3).
Chính “ai ai cũng có thể làm phê bình” đã làm cho phê bình nhiễu loạn, mất chuẩn, loạn chuẩn. Vậy “ai ai” kia là ai cần phải bị loại trừ, để ai đó được quyền phê bình? Ai đó là những ai? - Các tên tuổi trong biên chế Viện Văn học? Các vị khoa bảng? Các nhà phê bình lận lưng thẻ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam? Ta, chắc chắn rồi. Và ai nữa? Thế các cây bút tập sự mới nhập làng thì sao? Lại rất mơ hồ.
Toàn cầu hóa, đâu là “chuẩn” để quy chiếu từ đó đánh giá tác phẩm văn chương? Trong triết học, Nietzsche cuồng nộ đập nát bảng giá trị cũ [đang lưu hành] để dựng lên bảng giá trị mới, qua đó tác động rộng lớn đến nền triết học thế giới thế kỉ XX. Bên thơ ca, thần đồng [đích thực] thơ ca Pháp Rimbaud dũng mãnh phá tan mọi chuẩn tắc thơ đương thời để lập nên chuẩn mới, ảnh hưởng cả nền thơ nhân loại sau đó. Sau đổi mới, văn chương tiếng Việt phát triển đa khuynh hướng, đa giọng điệu, đa phong cách, chúng cần đến nhiều chuẩn khác nhau để đánh giá. Khác nhau, thậm chí đối chọi, phản bác nhau.
Thế giới mở, ai dám và ai có thể độc quyền chân lí nghệ thuật? Một tác phẩm vừa đưa ra thị trường, nếu phê bình truyền thống phải chờ đến ngày hôm sau, tuần sau, tháng sau mới thấy xuất hiện bài viết, thì hôm nay đã khác. Chúng nhận được ý kiến khen chê hoặc bị bỏ quên ngay khi vừa ló đầu ra đời. Kịp thời và nhanh nhạy. Nó mang ở tự thân đặc tính của báo chí. Còn hơn cả báo chí, bởi điều mà báo giấy không kham nổi thì báo mạng, website, facebook, blog đảm đương oanh liệt. Có cả không gian mênh mông cho người quan tâm vào cuộc.
Tác phẩm văn chương là một thế giới mở tồn tại vô vàn khoảng trống và những điểm trơn trợt bất định, mời gọi các diễn ngôn khác nhau, từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Các diễn ngôn phát ra qua kinh nghiệm, cảm xúc, tri thức rất khác nhau của bộ phận độc giả khác nhau. Vô danh hay nổi tiếng, chuyên hay không chuyên, mới tập tò hay thâm niên công tác. Trình độ độc giả hôm nay đã được nâng cao, nên thái độ của họ đối với vấn đề văn học đã khác. Họ hết còn thưởng thức tác phẩm thụ động, mà tự tin nói lên cảm nghĩ và phát hiện của riêng mình, sẵn sàng nhảy vào dự phần nhận định và tranh luận.
4.
Thở than phê bình xuống cấp, sa sút, ta luôn đòi hỏi chất lượng tiêu chuẩn ISO cho các bài phê bình.
Trước đây, chúng ta hay nói đùa kiểu “nhà nhà làm thơ, người người làm thơ”, thì bây giờ phê bình trên báo chí cũng nằm trong tình trạng đó”(4).
Sa sút với xuống cấp, lại cũng là nguyên do từ “ai ai” trên. Qua đó hội chứng đổ thừa cho “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” giành thêm mảnh đất mầu mỡ để nhân giống! Tại sao cứ chính nó mà không là thủ phạm nào khác? Cớ sao “người người làm phê bình, nhà nhà làm phê bình” không phải là cơ hội lớn cho nền văn học phát triển, mà lại làm trở ngại? Nữa, nếu ở đó, ta không phải đồng thanh một kiểu phê bình, mà hãy “kiểu ai nấy nói”, tại sao nỗi đó không phải là cơ may cho nền phê bình, mà lại kéo nó tụt hậu? Nhiều người làm phê bình với nhiều “kiểu” phê bình khác nhau, nhiều cách “phán” khác nhau là điều cần thiết cho đa dạng hóa một nền văn học. Dĩ nhiên, khi các “kiểu” phê bình ấy được đặt trên nền tảng lí luận vững chắc mà không tùy hứng đến tùy tiện.
Ta kêu “thiếu chuẩn”, “loạn chuẩn” vân vân, vậy đâu là “chuẩn” hay “kiểu” phê bình của ta? Nó được đặt trên nền tảng mĩ học nào? Đâu là tang chứng vật chứng để chứng thực cho chuẩn kia? Hay lần nữa ta huy động đâu Hoài Thanh từ thời xa lơ xa lắc? Hoặc lục lại các chuẩn truyền thống còn quá ư mơ hồ, ít nhiều đã lạc thời? Cả ở đây nữa, không phải bản thân ta đang tiếp tục chương trình cảm tính với chung chung, để đóng góp phần mình vào nỗi “loạn chuẩn” kia, sao?
5.
Cuối cùng, quen rên rỉ ỉ ôi người thiên hạ, trong khi chính ta lạc hậu từ đời nảo đời nao mà không tự biết.
“Lâu nay, tôi thường có thói quen đọc các bài “phê bình điểm sách” thơ bằng cách đọc dăm bảy câu thơ dẫn chứng. Nếu thấy các dẫn chứng không thuyết phục thì không đọc nữa. Tôi tin không có “bột” thì dù có tán hươu, tán vượn thế nào, cũng không thể “gột” nên “hồ” được. Dần dần, tôi loại bỏ bằng cách không đọc những bài viết kiểu này. Tôi tin nhiều độc giả cũng cách phản ứng giống tôi”(5).
“Nhiều độc giả cũng cách phản ứng giống” như thế, không sai. Đó là độc giả của sách giáo khoa cấp Trung học Phổ thông. Viết giáo khoa thư THPT, nhà phê bình buộc phải trích bình những đoạn thơ hay, đẹp theo quy chuẩn đã được thừa nhận rộng rãi. Ở đó, “bình” là chính. Trong khi phê bình ngoài trần gian muôn màu thì khác, hoàn toàn khác.
Tại đây, thứ nhất, có khi nhà phê bình chỉ lôi các câu/ đoạn thơ dở để phê, không mục đích nào khác là bảo vệ luận điểm của mình. Thứ hai, họ có thể dẫn ra các đoạn thơ [họ cho là] hay để luận. Chính điểm này đáng quan tâm hơn cả, vì đoạn trích mà theo quán tính ta cho là “không có bột” nhưng với cách nhìn khác, họ đã “gột nên hồ”, mới đáng giá. Đọc bài phê bình là đọc luận điểm độc đáo cùng lập luận thuyết phục kia của nhà phê bình; các trích đoạn có mặt là cần thiết, nhưng nó chỉ đóng vai phụ.
Lưu trì quán tính lâu đời hay “thói quen đọc các bài “phê bình điểm sách” thơ bằng cách đọc dăm bảy câu thơ dẫn chứng… không thuyết phục” rồi bỏ qua một bài phê bình, là thói tật xấu. Xấu, và lỗi thời. Lỗi thời, bởi - dấn thêm một bước - thứ ba, mỗi hệ mĩ học có cái “hay” khác nhau, chúng bổ sung cho nhau hoặc vượt qua nhau. Nếu đoạn thơ trích dẫn thuộc hệ mĩ học hậu hiện đại, mà ta mãi đứng ở lãnh địa hiện đại dòm qua thấy “không có bột” rồi quay lưng bỏ đi, là vô hình trung ta đóng cửa với chính mình trước cái mới, cái xa lạ. Ta tự thôi học rồi còn gì!
*
Vậy đó, tiếp nhận thành quả người đi trước bắt mạch căn bệnh phê bình từng tàn phá cơ thể văn học Việt Nam, thay vì mổ xẻ mấy ung nhọt kia và cương quyết rũ bỏ chúng, ta đã làm điều vô bổ: than thở với đổ thừa. Than thở và đổ thừa đầy mơ hồ, vừa lầm lạc vừa lỗi thời. Lỗi thời nên, càng lầm lạc. Lầm lạc kéo dài và lây lan đến thành một thứ hội chứng khó chữa trị.
Đối mặt với hiện trạng phê bình kia, nhà phê bình tự trang bị tinh thần và cả thái độ mới. Đòi hỏi trước tiên là nhà phê bình tự thức toàn diện và sâu thẳm về sự yếu kém của bản thân nền phê bình, nhận mặt căn bệnh và cương quyết rũ bỏ chúng.
Tư thế tự do, tự do khỏi mọi ràng buộc định kiến nghệ thuật, ý thức hệ tôn giáo hay chính trị, quyền lợi phe nhóm, quen biết anh chị em bằng hữu. Có cái nhìn toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại: trước và sau 75, trong nước và hải ngoại, chính thống và ngoại biên, dân tộc đa số và dân tộc thiểu số, trung tâm văn hóa lớn và địa phương,… Phê bình học biết chấp nhận các quan điểm, các tác phẩm không cùng hệ mĩ học mình yêu thích. Hướng về phía tương lai và phía mới - phê bình học biết suy tư trong chiều hướng đưa nền văn học phát triển ở ngày mai, chứ không phải ngược lại, một phê bình sẵn sàng cho thế hệ hôm nay sáng tạo cái mới trong tâm thế mở của thời đại toàn cầu hóa.
Sài Gòn, 31-3-2012
I.R.S.R
(SH279/5-12)
---------------------------------
Các trích dẫn từ báo Văn nghệ trẻ, tháng 2&3-2012: Thiên Sơn (1), Trần Thị Thục (3), Hoàng Thụy Anh (4), Đặng Huy Giang (5), và báo Văn nghệ, ghi chép Tọa đàm tại Viện văn học: “Phê bình văn học - bản chất và đối tượng”, tháng 5-2004 (2).
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.