Phạm Duy - Người tình của sông Hương

14:33 30/12/2021

THANH TÙNG  

Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.

Giáo sư Trần Văn Khê giới thiệu "Trường ca Hàn Mặc Tử" của nhạc sỹ Phạm Duy

Năm 1970, khi mới vào đại học chúng tôi thường hát, nghe lén nhạc. Có nhiều bài rất hay nhưng không rõ tên tác giả. Hồi ấy ở miền Bắc thơ và nhạc thường được chép vào sổ tay, chuyền tay nhau đọc, rất ít bài có đề tên tác giả. Sau này tôi mới biết có một số bài của Phạm Duy như: Thiên Thai, Suối Mơ (viết chung với Văn Cao), Cô hái mơ… Học kì 1 năm thứ nhất, khi đang học văn học dân gian, phần truyện cổ tích, không rõ là thành viên nào trong lớp đã “truyền bá” bài Khối tình Trương Chi. Đang học Trương Chi được nghe hát Khối tình Trương Chi, thấm thía, tan chảy cảm xúc trong từng câu từng chữ. Mãi đến sau năm 2005 tôi mới được diện kiến tác giả của những ca khúc bất hủ ấy. Tôi gần gũi với nhạc sĩ Phạm Duy những năm cuối đời không phải chỉ có lí do nghề nghiệp mà nhiều hơn là từ hoạt động dòng họ. Tôi được ông đồng ý và đã lược trích một số đoạn trong hồi ký của ông để in trong “Thông tin họ Phạm Việt Nam” như “Phạm Duy thế phả”, “Đi tìm mồ mả gia tiên”Tôi gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư lần đầu tiên cũng tại nhà nhạc sĩ Phạm Duy ở thành phố Hồ Chí Minh. Ở Huế tôi có hơn 40 năm đồng hành trong lĩnh vực văn nghệ, báo chí với một người bạn thân thiết của nhạc sĩ Phạm Duy là nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân. Đó là một cơ may cho tôi trong quá trình tìm hiểu, giải mã hiện tượng âm nhạc Phạm Duy, người viết tình ca hay nhất Việt Nam.

Trong những lúc trà dư tửu hậu, có vài người bạn đề nghị tôi phát biểu cảm nghĩ về cuốn hồi ký Phạm Duy? Tôi bảo: Phạm Duy rất thật thà và dũng cảm. Không phải loại người tốt khoe xấu che. Trong giới nghệ sĩ là bạn bè thân thiết, Phạm Duy rất giống Hoàng Cầm. Nhưng Phạm Duy chỉ giống Hoàng Cầm mỗi một khoản. Khoản tình tang ấy Hoàng Cầm đã viết trong bài “Phạm Duy trong tôi”. Hoàng Cầm có đủ “ba thứ lăng nhăng”. Phạm Duy thì không bia rượu, không thuốc lá, giống tuyên ngôn của Tú Xương: “Chừa được thứ nào hay thứ ấy/ Có chăng chừa rượu với chừa trà.” Và bù lại ông rất “nghiện yêu”. Trong hồi ký của mình Phạm Duy viết rất thật, trên đời này “chưa ai sướng bằng tôi. Sướng ở cái nghĩa người ta lao tới và không bao giờ quên được nhau. Đôi mắt bao giờ cũng còn đuôi, không bao giờ hận tình”… “Tình yêu đẹp lắm. Người nam và người nữ yêu nhau mới có cuộc đời, còn nếu không yêu, tuyệt giống từ lâu rồi”.

Ông đã từng so sánh giữa mình và Trịnh Công Sơn: “Giữa lúc khó khăn, Trịnh tìm tình ru đời vào cõi mộng mị, tôi vẫn phá ra vách tường sương mù để tìm về thực tại”.

Có những lúc yêu đồng thời hai người ông cũng kể. Trong thời gian đi hát tại Hà Nội, ông có quan hệ với một cô ca sĩ phòng trà Thương Huyền và một trong hai vũ nữ nổi tiếng nhất Hà Nội lúc bấy giờ tên là Định đẹp một cách lộng lẫy. Ông đã viết cho cô Định bài Tình kỹ nữ: “Đêm nay đôi người khách giang hồ/ Gặp nhau tình trăng nước…”. Khi lên Yên Thế ông cũng cùng lúc yêu hai cô thôn nữ, một trong hai cô đã khiến ông có ý định lấy làm vợ. Sau này, có lần ông quay trở lại tìm người con gái ấy. “Gặp lại cô gái quê, thấy nàng vẫn chưa lấy chồng, vẫn còn đẹp, vẫn quần quật lao động… Trong mấy ngày ở lại đây, tôi được hưởng những đêm ân ái nồng cháy trên ổ rơm thơm phưng phức bên người đẹp nhà nông có thân hình cứng như… gỗ lim.”

Nhờ “nghiện yêu”, với Phạm Duy “mỗi bài hát cũng là một cuộc tình”.

Phụ nữ Huế có sức hấp dẫn đặc biệt với Phạm Duy. Ông viết:

Từ khi biết Huế (1944) cho đến khi tôi đã yêu bà Thái Hằng rồi thành vợ chồng (1948), tôi vẫn ước mơ có một người tình xứ Huế. Con gái Huế, lẽ dĩ nhiên là đẹp rồi. Cái mà tôi thích nhất là người đàn bà xứ Huế còn giữ được nhiều nữ tính. Cái nữ tính ấy lại được nuôi dưỡng trong khung cảnh nên thơ của vùng có nhiều đền đài lăng tẩm núi Ngự sông Hương làm cho nó có một sức hấp dẫn mạnh đối với loại người có nhiều “đàn ông tính” như tôi. Theo tôi, không một nơi nào trên nước Việt Nam này có người phụ nữ được sống trong cái môi trường văn hóa thơ mộng sâu sắc như thế cả”.

Vì thế Phạm Duy thường nói: “Cái đầu tôi để ở Hà Nội, cái dạ dày để ở Sài Gòn còn trái tim tôi để ở Huế”. Điều đó giúp ta hiểu vì sao trong bài Tình Ca tuyệt tác ông viết:

“Tôi yêu những sông trường
Biết ái tình ở dòng sông Hương”.


Câu chuyện thầm kín giúp Phạm Duy “Biết ái tình ở dòng sông Hương”, rất ít người biết. Đến cuối đời, người đầu tiên ông tiết lộ là nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân. Đó là một nhân vật rất thân quen trong hội cựu học sinh trường Đồng Khánh có tên là Kiều Miên. Ngày ấy Kiều Miên hát Giọt Mưa thu của Đặng Thế Phong rất hay.

Năm 1953 ông đến Huế được các cô gái cháu của Hoàng Thái hậu Từ Cung tiếp vào một đêm trăng. Ông rất xúc động và sau cuộc gặp gỡ này bài Dạ lai hương ra đời. Ở phố Ngự Viên xưa lại có một người đẹp đã gợi cảm hứng cho ông sáng tác bài Tôi còn yêu tôi cứ yêu. Đặc biệt trong một ngôi biệt thự ở phía trước đàn Nam Giao, Phạm Duy gặp một giai nhân. Tài tử Hà thành bỗng dưng trở thành Trương Chi, và rồi mối tình đó đã để lại cho Huế một bài hát Khối tình Trương Chi nổi tiếng.

Êm êm dần lan
Cung Nam Thương mờ vang
Cung Nam Ai thở than
Ai thương em lầu buồn mỗi lúc khuya tàn cung


Xin được nói thêm, ngôi biệt trước đàn Nam Giao có ba kì nữ của Huế. Sau này Phạm Duy còn phổ nhạc Kiếp nào có yêu nhau của một trong ba kì nữ ấy là nhà thơ, nhà báo Minh Đức Hoài Trinh.

Trong sự nghiệp âm nhạc của những tên tuổi lớn, khán - thính giả rất quan tâm đến hoàn cảnh ra đời, cảm hứng sáng tạo, hình bóng nhân vật của từng bài hát. Những bí mật thú vị ít ai biết đằng sau các bài hát thi thoảng mới được tác giả chia sẻ trong những bối cảnh thích hợp. Vì thế những điều bí ẩn phía sau những ca khúc trữ tình vẫn được những người yêu mến, hâm mộ tìm tòi, giải mã để khám phá đời sống tình cảm, tính cách, và tâm hồn của tác giả.

Năm 1944, ngay từ lần đầu tiên đến Huế, đêm đêm Phạm Duy cùng bạn bè xuống đò nghe ca Huế. Phạm Duy bắt gặp được cái đẹp trong những điệu hò, điệu lí của Huế và cái âm giai ngũ cung lơ lớ. Ông nhận xét và đã ghi lại nhạc lý và viết thành cuốn biên khảo “Những điệu hát bình dân Việt Nam”: “Âm giai ngũ cung lơ lớ của hò mái nhì khác hẳn với âm giai điều hòa (harmonie tempérée) của Âu Tây và âm giai ngũ cung đúng của dân nhạc miền Bắc. Các cung bực của hò Huế có những cao độ (intervalles) non hơn hay già hơn cung bực trong âm giai Âu Tây, hay âm giai miền Bắc. Hò mái nhì hay hò mái đẩy là tiếng nói điển hình của người dân tại một miền nên thơ nhất của đất nước Việt. Tiếng hát xây dựng trên một âm giai lơ lớ đã thể hiện được sự thần bí của cõi lòng, vì vậy nên dễ dàng đi sâu vào tâm hồn người nghe hơn là nhạc ngũ cung đúng của miền Bắc”.

Về sau ông đã vận dụng nhạc ngũ cung vào một số ca khúc phổ thơ, nâng ca dao thành tân nhạc. Đặc biệt, trong phần vào miền Trung của trường ca Con đường cái quan ông có sự phá cách bằng âm giai ngũ cung lơ lớ của Huế. Trong Con đường cái quan Phạm Duy có đoản khúc rất nổi tiếng trong mọi thời kỳ như Nước non ngàn dặm ra đi. Ngoài ra còn có trường ca Mẹ Việt Nam đều phát triển từ ca nhạc truyền thống Huế.

Khoảng cuối năm 1946, trên đường từ miền Nam ra Hà Nội, Phạm Duy dừng chân tại Huế và lại đi hát với bạn bè, gặp nhiều mỹ nữ. Ông gặp lại thi sĩ Lưu Trọng Lư, được nghe “Nguyệt cầm” tại tư gia của cô Tôn Nữ Lệ Minh ở gần chùa Từ Đàm. Và Phạm Duy đã phổ nhạc bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.

Trong kháng chiến chống Pháp, nhạc sĩ Phạm Duy tình nguyện vào mặt trận Bình Trị Thiên. Từ chiến khu Ba Lòng ông được tổ chức đưa về Đại Lược, ven sông Ô Lâu, rồi bí mật đưa vào hát ở cầu ngói Thanh Toàn, huyện Hương Thủy. Có hôm Phạm Duy được đưa lên hát ở làng Lại Thế, cạnh thôn Vỹ Dạ. Những ngày ở Bình Trị Thiên khói lửa Phạm Duy sáng tác được ba nhạc phẩm bất hủ: Quê nghèo, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung. Về miền Trung: “Ôi quê hương xứ dân gầy, ôi bông lúa/ Con sông xưa, thành phố cũ…”, Phạm Duy viết trong hồi k: “Bài Về Miền Trung là một bài ca Huế hùng dũng, không bi quan yếm thế như một bài Nam ai, Nam bình chẳng hạn”. Phạm Duy kể: “Tôi đã làm công việc phát triển mạnh mẽ cái thanh âm lơ lớ của miền thùy dương này”. Cảm hứng trong chuyến đi Bình Trị Thiên lần này còn giúp Phạm Duy sáng tác các bài Tình nghèo, Người về, Bà mẹ quê. Đặc biệt là bài Mười hai lời ru viết về 12 bà mẹ đã bị giặc Pháp giết rất dã man.

Nhạc sỹ Phạm Duy dự diễn đàn giáo dục (VTV1 thực hiện) ở Trường Quốc Học. Đây là lần về Huế cuối cùng của ông
Nhạc sỹ Phạm Duy hát với sinh viên đại học Huế trong chương trình “Tôi yêu tiếng nước tôi”


Từ ngày Phạm Duy hồi hương và có quốc tịch Việt Nam, gia tài âm nhạc, những ca khúc hay, những bài tình ca bất hủ cũng theo về cùng ông. Nhiều chương trình nhạc Phạm Duy được trình diễn, nhiều đĩa nhạc, sách nhạc của ông lại được trình làng. Với Huế, những năm cuối đời Phạm Duy phổ 10 bài thơ của Bích Khê, trong đó có bài Huế đa tình. Ông phổ thơ Hàn Mặc Tử và đã về Huế trình làng Trường ca Hàn Mặc Tử tại Học viện Âm nhạc Huế vào tháng 5/2012. Sau đó là chương trình “Tôi yêu tiếng nước tôi” tại hội trường Trường Đại học Sư phạm (16/9/2012). Trước đó, chương trình đầu tiên là “Ngày trở về” tại Trung tâm Festival 11 Lê Lợi.

Sự trở về của nhạc sĩ Phạm Duy còn có thêm ý nghĩa ở chỗ lớp trẻ hôm nay biết Phạm Duy nhiều hơn và có một lớp ca sĩ trẻ thấm Phạm Duy, hát Phạm Duy rất hay như Ánh Tuyết, Tấn Minh, Mỹ Linh, Khánh Linh, Nguyên Thảo, Đức Tuấn… Nhiều lần nhạc sĩ Phạm Duy về Huế chỉ là để đi thăm lại những nơi đã ghi dấu trong lòng ông. Để được thưởng thức những tinh hoa ẩm thực Huế và được nghe những ca sĩ không chuyên hát nhạc Phạm Duy. Ông giữ lại nhiều ấn tượng mạnh và kỷ niệm đẹp khi được nghe cựu nữ sinh Đồng Khánh hát nhạc Phạm Duy. Đặc biệt là hiện tượng Kim Đa, một doanh nhân mê nhạc Phạm Duy và hát nhạc Phạm Duy khá hay. Phạm Duy được sống thanh thản những năm cuối đời có phần từ những niềm vui nho nhỏ ấy. Và mỗi lần Phạm Duy về Huế, nếu để ý sẽ nhận ra cái cảm giác như là ông đang trẻ lại, xen lẫn sự nuối tiếc về “một thời oanh liệt”.

Sau ngày nhạc sĩ Phạm Duy đi xa, thân hữu ở Huế đã tổ chức nhiều buổi sinh hoạt hồi tưởng Phạm Duy và hát nhạc Phạm Duy để tưởng nhớ ông. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhạc sĩ Phạm Duy, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân ra mắt cuốn sách “Phạm Duy - Biết ái tình ở dòng sông Hương”. Có thể xem cuốn sách này là một bộ sưu tập tư liệu về Phạm Duy đầy đủ nhất cho đến thời điểm hiện nay.  

T.T
(TCSH43SDB/12-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)   

    MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN

  • PHI TÂN

    Làng Đại Lộc quê tôi cách biển không xa, nhưng người làng tôi không một ai biết đi biển đánh cá. Nghề đi biển là của những người đàn ông làng biển.

  • LÊ QUỐC HÁN

    Huy Cận (31/5/1919 - 19/2/2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ Mới (1939 - 1945). Nhiều nhà phê bình xếp ông cùng với Xuân Diệu, Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử vào hàng “tứ bất tử” trong thi ca Việt Nam của thời kỳ này.

  • BÙI KIM CHI

    Tôi rời trường xưa, Đại học Sư phạm Huế chạm ngưỡng 50 năm. Bàng hoàng. Xao xuyến. Thuở vàng son của những tháng năm cũ vẫn lặng lẽ theo tôi, giao cảm tuyệt vời.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Sáu chục năm trước, tôi chỉ là người hoạt động văn nghệ “tay trái”, vì “tay phải” còn lo làm công ăn lương. Sau khi rời ngành giao thông 1974 cho đến lúc về hưu năm 1999, thì làm văn nghệ cả hai tay!

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Theo báo Quyết Chiến, Cơ quan Thành bộ Việt Minh Thuận Hóa, về sau là của Việt Minh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên), do nhà báo Vĩnh Mai (bí danh và cũng là bút danh của Nguyễn Hoàng) làm chủ bút; các nhà báo Nguyễn Đức Phiên, Vĩnh Hòa, Nguyễn Cửu Kiếm kế nhau làm quản lý và trị sự.

  • TRẦN NGUYÊN HÀO

    Bác Hồ là người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam, là người sáng lập và linh hồn của nhiều tờ báo vô sản đầu tiên trong lịch sử báo chí ở nước ta và trên thế giới.

  • Kỷ Niệm 130 Năm Ngày Sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2020)  


    VÕ VÂN ĐÌNH

  • PHẠM XUÂN PHỤNG  

    Về quê mẹ là về quê nội của mạ mình, tức là làng Tân Xuân Lai thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Còn “Quê Mẹ” là nhan đề một bài thơ của Tố Hữu viết về quê hương mình (cả quê nội lẫn quê ngoại), mà địa danh đại diện trong bài là Huế: “Huế ơi! Quê mẹ của ta ơi!”

  • Kỷ niệm 45 năm ngày thống nhất Đất nước (30/4/1975 - 30/4/2020)

    PHONG LÊ

  • ĐÔNG HÀ  

    Người ta mỗi ngày thường hay nhìn tới để đi, nhưng cũng nhiều lúc, chọn cho mình một góc riêng tư, lại thường nhớ về những nỗi nhớ.

  • XUÂN CỬU

    Kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế

  • BÙI HIỂN

    Giữa năm 1949, lúc ấy tôi đang là ủy viên kiểm tra sở thông tin tuyên truyền liên khu IV, ông Hải Triều gợi ý tôi nên đi công tác một chuyến vào vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên.

  • LÊ QUANG THÁI

    Nhà thơ Nguyễn Khoa Vy (1881-1968) ở làng An Cựu, phủ Thừa Thiên, bút hiệu Thảo Am, đã sáng tác bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú theo hạn mỗi câu có tên một con thú.

  • ĐỖ QUÝ DÂN   

    Có lẽ tất cả những ai lớn lên ở Việt Nam đều biết đến nước mắm. Và đây chỉ là một câu chuyện. Một câu chuyện có chút liên quan đến nước mắm. Câu chuyện này cũng liên quan đến một người đàn bà được hoặc bị người ta gán cho cái tên Nước Mắm, hoặc Mắm, nếu người ta lười, chỉ muốn dùng một chữ để cho tiện gọi tên.

  • HỒ NGỌC DIỆP     

    Rất nhiều nhà viết sử, làm văn ao ước một lần được Bác Hồ tiết lộ một chút đời tư, nhưng may mắn đó chỉ thuộc về một người, đó là cố Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà văn Sơn Tùng.

  • CHÍ QUANG  

    Tết Nguyên đán là ngày lễ hội lớn nhất trong năm của toàn dân tộc. Những nghi lễ, tập tục ngày Tết biểu hiện đậm nét văn hóa Việt Nam, chứa đựng tổng thể văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa nghệ thuật trong đời sống.

  • PHẠM THỊ CÚC  

    Chú tên là Đô, người làng Thanh Thủy, nhưng không phải làng Thanh Thủy Chánh có Cầu Ngói, mà là Thanh Thủy Thượng, bây giờ gọi là Thủy Dương, cùng quê với nhà thơ Phùng Quán. Chú không phải là nhà thơ nên ngất ngưỡng kiểu khác, đặc biệt hơn.