Người Bhutan không làm việc kiếm tiền suốt cả ngày. Đủ sống là được rồi. Họ dành nhiều thời gian rảnh để tận hưởng các niềm vui khác trong cuộc sống…
Một ngày hội làng ở miền Đông Bhutan
Biết đủ là đủ
Ngoài ngôi nhà chính trên bản, gia đình tôi còn có hai ngôi nhà phụ trên các thảo nguyên để chăn thả đàn trâu bò di chuyển theo mùa cỏ. Từ ngàn đời xưa, người du mục (Brokpa) trên các thảo nguyên Himalaya vẫn sống như vậy. Nơi đây miền Đông của Bhutan, đất nước có địa hình cao nhất thế giới.
Bản làng tôi trên núi cao hơn 4.000m. Trước kia không có đường ô tô, chúng tôi phải đi bộ 8 giờ từ chỗ đậu xe. Giờ có đường ô tô rồi nhưng cũng chẳng nhà nào xây garage vì không có trộm. Chúng tôi quẳng xe bất cứ chỗ nào cũng đều như sân nhà mình.
Nhà ở đây được xây bằng đá tự nhiên trên núi, gỗ óc chó trong rừng và đất sét trắng (cao lanh) đào ở ven suối. Toàn là những nguyên liệu tại chỗ, hoàn toàn miễn phí, nhưng chúng tôi cũng có một số quy định, ví dụ như khi chặt 1 cây sẽ phải trồng 2 cây con thay thế vào vị trí đó. Đội kiểm lâm địa phương sẽ kiểm tra và xác nhận khi cây con đạt khả năng sống khỏe. Và thứ duy nhất chúng tôi phải mua từ dưới chợ là tấm tôn để lợp phủ trên cùng mái gỗ.
Ngôi nhà chính trên bản và hai ngôi nhà phụ của chúng tôi đều có tuổi đời mấy trăm năm. Các gia đình ở đây đều xây tường dày 70 - 80cm để chống lại cái lạnh, sàn gỗ nguyên khối dày 20cm, mái nhà cũng bằng gỗ xẻ ghép lại và trên cùng đóng một lớp tôn để trôi tuyết. Ngôi nhà nào có 2 tầng thì cầu thang cũng đóng bằng những tấm gỗ rất dày. Khu rừng của chúng tôi có sẵn cực nhiều cây óc chó cổ thụ.
Hàng năm, dân làng di chuyển theo đàn trâu bò, từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa cỏ cũng là mùa sữa, chúng tôi ở trên những thảo nguyên cao hơn 4.500m rất mát mẻ. Bò và Yak mùa này nhiều sữa (vắt tay). Tôi chưa bao giờ thấy sữa ở đâu sánh đặc thơm ngon như thế. Chúng tôi chỉ lấy sữa khi bò con đã biết ăn cỏ, và không bao giờ lấy sữa cả ngày, vẫn để cách bữa cho bò con bú mẹ. Sữa được làm thành bơ và phô-mai, người ta sẽ đến tận nơi thu mua. Thu nhập từ 1 em bò sữa trong 6 tháng mùa cỏ đạt khoảng 40$/ngày. Nhà tôi ít người, chỉ có mỗi cha và vợ chồng em trai trông coi đàn bò, nên không nuôi nhiều. Người Bhutan không làm việc kiếm tiền suốt cả ngày. Đủ sống là được rồi. Họ dành nhiều thời gian rảnh để tận hưởng các niềm vui khác trong cuộc sống.
Chúng tôi không cần phải cho trâu bò ăn cám công nghiệp, bởi ở đây quá nhiều cỏ, nước tự nhiên sạch tới mức đủ tiêu chuẩn đóng chai, không khí trong lành tuyệt vời. Và chúng tôi nuôi trâu bò chỉ để lấy sữa, không bao giờ giết mổ. Chỉ khi trâu bò già tự chết thì mới lấy thịt sau khi đã để qua 1 ngày đêm và thực hiện một số nghi lễ truyền thống. Người Bhutan tuyệt nhiên không sát sinh, không giết bất cứ con vật nào.
Trên thảo nguyên không có điện (trong làng thì có), chúng tôi dùng bơ đốt đèn. Không có internet, chỉ có sóng di động. Những tấm năng lượng mặt trời dùng cho sạc điện thoại, đèn pin và một số thiết bị cần thiết. Ban ngày ở đây rất nắng nhưng vẫn lạnh, cái nắng hanh khô khiến bầu trời cứ trong veo và xanh ngắt. Ngẩng mặt lên sẽ thấy cả mặt trăng, mặt trời và những dãy núi băng trắng muốt sừng sững phía đằng xa.
Nơi đây rất nhiều nấm tự nhiên và rau rừng. Cũng không cần trồng hoa vì bốn phía nhìn đâu cũng thấy bạt ngàn hoa tự nhiên rực rỡ và thơm ngát. Những lúc rảnh rỗi, cha tôi thường hái rau nấm về phơi khô. Riêng tháng 6 - 7 còn có đông trùng hạ thảo, hẳn là loại mắt đỏ đặc sắc nhất thế giới chỉ Bhutan mới có. Chúng tôi không bao giờ thu hoạch tận diệt bất cứ cái gì, mà luôn để lại một ít làm hạt giống cho mùa sau.
Hàng năm, vào tháng 10, khi cỏ bắt đầu úa vàng bởi sương giá, chúng tôi lại di chuyển cùng đàn trâu bò xuống núi. Trước khi rời đi, chúng tôi sẽ tranh thủ rắc một số hạt giống xuống nền đất tơi xốp. Tuyết sẽ phủ kín suốt mùa đông. Và tháng 4 tuyết tan, hạt sẽ tự lên mầm để tháng 5 chúng tôi trở về.
Chúng tôi xuống khu vực thảo nguyên rừng thấp khoảng 2.500m để tránh rét trong 6 tháng. Nơi đây có sẵn những loại lá cây rất ngon dùng làm thức ăn cho trâu bò trong mùa tuyết. Chúng tôi đã trồng thật nhiều cây. Và mỗi khi kết thúc mùa di cư, trước khi lên núi, chúng tôi sẽ chặt tỉa cành để lá non sinh sôi um tùm sẵn sàng cho ngày quay trở lại.
Trên thảo nguyên cũng phân chia ranh giới địa phận đất đai của các gia đình nhưng chẳng bao giờ chúng tôi nghĩ đến việc làm hàng rào vì diện tích quá rộng chẳng sức đâu mà làm, vả lại cũng không cần thiết. Bản thân tôi chưa bao giờ đi hết “vườn nhà”. Từ chỗ đậu ô tô phải đi bộ 3 giờ để vào đến nhà, đồ đạc thì vắt lên lưng ngựa. Dân làng đánh dấu “biên giới” giữa các nhà bằng tảng đá, gốc cây hoặc dòng suối. Cha tôi thường hẹn hò uống trà (sữa nấu với trà đen) với mấy nhà hàng xóm tại bãi cỏ dưới gốc cây to 4 người ôm không xuể chỗ ngã tư biên giới các nhà. Để gặp nhau, các ông bà phải khoác phích trà đi bộ 1 giờ rưỡi. Dân làng thường đi bộ như thế quen rồi nên chẳng thấy có gì là ngại.
Điểm nhấn “nội thất” trong nhà tôi là bếp lửa. Rừng có sẵn rất nhiều thông bách già đổ xuống, nên nhà ai cũng một kho củi (chứa tinh dầu rất thơm). Bếp lửa là trái tim của ngôi nhà chúng tôi. Vừa là nơi nấu nướng, uống trà, ăn cơm. Vừa là nơi chuyện trò sum vầy, đồng thời là nơi ngủ nếu thích. Xung quanh nhà là các tủ kệ gỗ đơn giản. Không TV vì không có sóng truyền hình (trên bản thì có), trên thảo nguyên chỉ có đài phát thanh, cũng khá nhiều kênh. Không tủ lạnh (nhiệt độ tự nhiên ban ngày là tủ mát, ban tối là tủ cấp đông rồi). Máy lạnh và quạt chẳng bao giờ cần dùng. Của cải trong nhà tôi chỉ có bơ, sữa, phomai (vừa để bán vừa để dùng), nồi xoong bát đĩa, thực phẩm và quần áo.
Vậy là đủ rồi! Nhận diện hạnh phúc
Tuy vẫn có nhà hiện đại dưới phố nhưng tôi chỉ yêu gian bếp nhỏ trên thảo nguyên mênh mông giữa những dãy núi tuyết hùng vĩ trùng điệp này. Núi là nhà, rừng là vườn, thảo nguyên là khu nghỉ dưỡng 5 sao. Người du mục luôn giữ gìn, vun đắp và chăm sóc cả dãy núi, cả khu rừng và từng ngọn cỏ. Bởi đó chính là nguồn sống của chúng tôi.
Tôi yêu tiếng chim rừng ríu rít inh om. Tôi yêu những khoảnh khắc bình yên tĩnh lặng. Tôi yêu đất trời hồn nhiên tràn trề sức sống. Tôi yêu mùi khói gỗ bách thơm quyện lẫn mùi bơ và pho-mai trâu Yak tạo thành mùi đặc trưng của quê hương đã in sâu vào tâm trí. Cho dù đi bất cứ nơi đâu, chỉ cần về đến nhà, ngồi bên bếp lửa ngửi mùi khói quen thuộc ấy, là tôi thấy mình ngập tràn hạnh phúc như đã có cả vũ trụ, chẳng còn thiết tha gì với cuộc sống hiện đại nơi phố thị.
Buổi sáng chúng tôi thức dậy, việc đầu tiên là thổi bùng bếp lửa, uống một bát trà Sujar nóng thơm lừng kèm Tsampa hoặc cốm gạo rang. Sujar là một loại trà trên núi rất thơm, giàu canxi, có vị hơi mặn, khi nấu xong bỏ thêm chút bơ. Uống trà xong thì đi lấy sữa, rồi về bếp ăn bữa sáng với cốc sữa tươi ngon tuyệt. Sau đó chúng tôi cùng làm việc ngay tại gian bếp này. Các công việc cũng rất tuyệt vời, chẳng có gì phải lo nghĩ căng thẳng bon chen nên tâm hồn luôn an lạc. Đầu tiên, sữa được giữ “nghỉ” trong vài giờ, rồi cho chạy qua máy thủ công, tách riêng phần sữa vàng béo để làm bơ và phần sữa trắng để làm phô mai. Sau đó cất bơ và phô mai vào kho và kiểm tra độ lên men của phô mai đang chín: phô mai tươi, phô mai hun khói (trên gác bếp), phô mai thối...
Mỗi ngày chúng tôi đều có nhiều khoảng thời gian rảnh để uống trà, thiền định, tụng kinh niệm Phật hoặc đi hái rau, nhặt hạt óc chó. Lâu lâu mới đi chợ. Hàng tuần có người vào thu mua bơ, phô mai. Họ sẽ mua giúp các thứ từ thị trấn.
Tôi được sống đúng cuộc sống tự nhiên của đời người. Không cần gì nhiều hơn ngoài thức ăn, quần áo, nhà ở, thông tin liên lạc vừa đủ. Tôi chẳng cần nhiều hơn để làm gì. Mọi nhu cầu khác đều trở nên thừa thãi và phiền toái, chỉ càng khiến mình thêm ràng buộc vướng víu trong những mối bận tâm mệt mỏi. Ở nơi đây, tôi sung sướng phát hiện ra những điều kỳ diệu có sẵn của tâm hồn sâu lắng mà chỉ khi buông xả mọi suy nghĩ vọng tưởng, chúng ta mới có thể tìm thấy được.
Từ gian bếp đơn sơ này, tôi đã nhận ra hạnh phúc thực sự không đến từ những điều kiện vật chất bên ngoài, mà đến từ bên trong tâm thanh thản an vui khi thoát khỏi phiền não khổ đau của mong cầu tham vọng. Đó là thứ hạnh phúc bất tận của tâm tự do tự tại không phụ thuộc điều kiện bên ngoài. Hạnh phúc đó không thể mua nổi bằng tiền bạc, cho dù tất cả vàng bạc châu báu phủ kín mặt đất cũng không thể sánh bằng, nhưng hạnh phúc đó lại hoàn toàn miễn phí. Suy cho cùng, chỉ cần đạp đổ bức tường tham vọng mong cầu đang nhốt chúng ta trong phiền não thì chúng ta sẽ được tự do, thanh thản, an lạc, hạnh phúc mà không phải cần thêm bất cứ thứ gì mình chưa có.
Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.
“Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.
Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.
Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.
Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.
Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.
Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.
Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.
Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…
Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.
Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.
Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.
Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.
“Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.
Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.
Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?
Chú trọng phát triển văn hóa đọc tại vùng nông thôn, miền núi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, văn hoá đọc ở trẻ em nói riêng sẽ không thể phát triển rộng lớn nếu hệ thống phát hành sách chỉ tập trung ở thành phố và trẻ em nông thôn, miền núi vẫn còn “đói sách”.
Hoạt động đấu giá nghệ thuật ở Việt Nam mới đang ở buổi bình minh. Buổi đấu giá nghệ thuật chính thức đầu tiên được tổ chức cách đây chưa đầy hai năm bởi Công ty Cổ phần Bán đấu giá Lạc Việt tại Hà Nội hồi tháng 5/2016.
Nhiều biểu hiện cho thấy nhận thức của xã hội đối với sở hữu trí tuệ còn hạn chế. Người dân chưa hình thành ý thức tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ; chủ sở hữu chưa chủ động thực hiện việc bảo vệ quyền và tài sản của mình mà vẫn mang nặng tâm lý trông chờ, ỷ lại.