Ở cõi nào Hải Bằng vẫn là thi sĩ

09:43 07/07/2023

HỒNG NHU

Tôi biết anh, đọc anh từ trong kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi người một đơn vị công tác, mãi đến năm 1972 mới gặp nhau. Đó là một ngày mùa hè, bấy giờ Đông Hà vừa mới được giải phóng.

Cố nhà thơ Hải Bằng và nhà thơ Hồng Nhu tại Hội văn học nghệ thuật Huế thập niên 90 - Ảnh: tư liệu

Tôi từ Vinh vào Quảng Bình chờ đoàn công tác Hà Nội vào để cùng đi Đông Hà. Tôi tìm đến nơi Hội Văn nghệ và Ty Văn hóa sơ tán tại một xóm nhỏ ven đồi cách Đồng Hới chừng mươi cây số.

Đang giữa trưa nắng nóng, Hải Bằng đánh quần đùi may ô lom khom, chăm chú làm cái gì đó ở chỗ vại nước nhà dân, nơi anh tá túc. Trần Nhật Thu bước vào, gọi to:

- Anh Hải Bằng ơi! Hồng Nhu mới ngoài kia vào ghé thăm anh đây này!

Hải Bằng ngẩng lên nhìn chúng tôi, “ồ” một tiếng rất vui vẻ. Cái tay tôi đưa ra để bắt tay anh bị hẫng bởi vì ngay lập tức anh im lặng, hơi nhíu trán quay đi, nhìn ngó đâu đó xung quanh ao, vườn của nhà chú. Tôi vội hỏi để chữa ngượng:

- Anh đang tưới cây đó à? Cây gì lạ vậy anh?

- À... à đó là thạch hộc loại chuyên mọc trên đá, mình mới kiếm được. Này, về chỗ Trần Nhật Thu nghỉ nghe, chờ mình chút!

Nói xong anh vớ chiếc cần câu dựng ở góc hè, quay lưng đi thẳng.

Chúng tôi trở lại nơi lán của Hội, ngồi nói chuyện được một chốc thì Hải Bằng xuất hiện. Mặt mày rạng rỡ, anh đưa cần câu lên. Đầu dây cần là một chú cá tràu to dễ đến bằng cổ tay. Anh gỡ con cá, quăng cho vợ Trần Nhật Thu:

- Rứa là có cái để thết Hồng Nhu, thôi tau về cái đã!

Nói xong, lại quay lưng đi thẳng. Trần Nhật Thu xòe ra cười, giải thích:

- Hóa ra bố nghĩ cách làm sao để câu cho được cá tràu mẹ giữa trưa và câu ở chỗ nào!

Nhưng rồi soong cá tràu kho nước tuyệt ngon ấy tôi không được ăn. Chả là khoảng nửa chiều Mỹ Dạ ở Hà Nội vào, kéo theo một đoàn văn nghệ sĩ đi chiến trường ghé lại: Trọng Loan, Bùi Bình Thi, Hồng Diệu v.v... Mỹ Dạ lo xa, sợ ở nhà bếp cơ quan hết gạo, trên đường về đã mua sẵn một túi bánh ướt. Sẵn có cá kho, thế là chúng tôi “ưu tiên" người đi chiến trường cái đã! Chúng tôi dọn ra. Đang đói bụng, lại phải nhanh để lên đường gấp cho kịp, chỉ xoẹt một cái, rổ bánh và soong cá kho đã sạch nhẵn.

Khách đi rồi, Hải Bằng trở lại thì mọi chuyện đã xong xuôi. Trong lúc chúng tôi cười vui, thì anh nghiêm mặt, chặc lưỡi xuýt xoa mãi, tiếc cho “bữa tiệc” anh dành cho tôi bị hỏng ăn!

...Lại nhớ hồi tôi mới trở về công tác tại Hội Văn nghệ tỉnh nhà. Nhìn cái cảnh cả “bầu đoàn thê tử” nhếch nhác của tôi, ngoài một đống sách vở ra chẳng có cái gì cả, anh ngẫm nghĩ rồi nói:

- Đi qua nhà mình, mình cho cái ni!

Lúc bấy giờ gia đình anh ở tại căn phòng tập thể của Công ty phát hành sách, chật chội và tối tăm. Anh lụi cụi leo lên gác lửng, lôi từ trong đống đồ đạc linh tinh ra một cái bàn và hai cái ghế xếp nhỏ, hất hàm:

- Chở về có cái mà ngồi. Bọn mình thì việc trước hết là viết, nghèo khổ đến đâu cũng viết, trời sập cũng viết, phải không?

Tôi chỉ còn biết đứng lặng nhìn anh mà nước mắt lưng tròng...

Cái bàn và hai cái ghế nhỏ ấy chính là nơi mà tôi đã ngồi viết suốt mấy năm ở tại gian hầm của 26 Lê Lợi...

Thế đấy, Hải Bằng là thế! Nhiều người trong giới văn nghệ chúng ta thường khó chịu với cái tính hay chỉ tay vỗ mặt của anh mỗi khi anh không đồng ý cái gì và với ai, nhưng ít người chú ý đến cái khía cạnh dịu dàng, tình nghĩa và nhân ái của anh, người thi sĩ đặc Huế này.

Trong cuộc sống thường ngày, Hải Bằng có vẻ căng cứng, thẳng thừng, nghĩ sao nói vậy, chẳng sợ ai, dù người đó là quan to chức trọng thế nào đi nữa. Nhưng thật ra, anh lại hay mềm lòng, mềm yếu là đằng khác; anh sợ bất cứ ai, bất cứ cái gì. Sợ vợ sợ con sợ người lớn đã đành, anh còn sợ cả con nít, trẻ con cũng bắt nạt được anh...!

Anh viết nhiều, người vốn yếu ốm như con mắm lẹp nhưng viết thì khỏe như voi, ít ai bì kịp. Có ngày anh “sản xuất” tới chục bài thơ, và nói cho công bằng là bài nào cũng đọc được, không có bài dở. Không phải người làm thơ nào cũng được như vậy! Có một lần anh rỉ tai tôi làm tôi vô cùng ngạc nhiên vô cùng sửng sốt: “Mình sợ lắm Hồng Nhu ơi! Sợ nên phải viết không ngừng, viết liên tục. Sợ nhất là chính thơ mình nó “chửi bới” mình!”.

Tôi lặng nhìn anh, chẳng hiểu ẩn ý của anh là gì. Mãi sau này tôi mới rõ. Cái sợ của anh là sợ ngòi bút mình viết không ra, viết không hay; sợ bạn bè vì sợ mình mà không dám chê; rồi sợ cả cho những ai vốn là người sáng tác mà không còn muốn sáng tác nữa! Anh kể: “Mình làm được bài thơ nào đều đưa cho bà Chiến (vợ anh) đọc, đó là người độc giả đầu tiên. Trăm lần như một, bà ta đều im lặng, chẳng khen mà cũng chẳng chê. Mình buồn lắm, chẳng biết làm sao để bà ấy mở miệng. Mình bèn nghĩ ra một cách. Mình đạp xe đi, chiều đạp về nói với bà Chiến: “Này, có bài thơ Phùng Quán mới làm gửi vào tặng anh đây, Chiến đọc thử coi!” Bà Chiến đọc xong, khen: “Hay quá! Thơ người ta làm như thế chứ!” Mình vỗ đùi, reo lên: “A, hay rồi đó nghe! Không phải của ông Quán mô. Của anh đó. Của Hải Bằng ta mới làm đó!” Bà Chiến trố mắt hỏi: “Của anh à?”. Rồi quay lưng đi xuống bếp, gióng với lại một câu: “Bây chừ thì không “hay” nữa!”

Kể xong, anh cười hể hả: “Rứa là được, thơ mình rứa là không tồi!”

...Người thi sĩ ngây thơ, hồn nhiên đó giờ đây đã vĩnh viễn ra đi ở cái tuổi bảy mươi. Căn bệnh ngặt nghèo mà anh đã chiến thắng nó suốt hơn 15 năm qua, giờ đã quật ngã anh. Hơn một tháng nằm bệnh viện, lúc mê lúc tỉnh; có lúc anh đã hồi phục, tưởng như Thần Chết một lần nữa phải khuất phục anh, “được anh tặng cho một tập thơ mang về âm phủ đọc rồi!” - nói vui như một bạn văn nghệ nào đó đã nói.

Mà đúng, cho đến hơi thở cuối cùng, anh vẫn làm thơ, làm ngay trên giường cấp cứu, trong một phút tỉnh lại. Đó là bài thơ ba câu viết trong ngày 2/7/98, năm ngày trước khi anh mất.

“Tôi thở bằng hai bờ sinh nhật sông Hương.
 Hôm nay tôi sẽ chuyển lại hơi thở mình
                    cho Mẹ tôi chưa sinh tôi ngày ấy.
 Cám ơn con đò sẽ chở tim tôi về từng bến mới”.

Bài thơ tuyệt mệnh chăng? có lẽ chưa đúng. Bài thơ như một tuyên ngôn tiếp tục sống. Trong đời thơ anh, Hải Bằng làm đủ loại: thơ tự do, thơ lục bát, thơ văn xuôi, thơ bốn câu, thơ hai câu... Nhưng thơ ba câu thì bài cuối cùng này là duy nhất.

Không biết vì sao tôi cứ tin rằng Hải Bằng giờ đây tuy đã vào cõi khác nhưng vẫn đam mê cái nòi thi sĩ, vẫn tiếp tục tìm tòi sáng tạo, cho ra đời một loại thơ mới của anh: thơ ba câu!

Có điều giờ đây ở cõi đời này, chúng ta không được đọc thơ anh nữa. Chẳng sao cả, những độc giả khác ở cái cõi vĩnh hằng kia, sẽ được đọc.

Người ở cõi nào cũng là người. Thơ ở cõi nào cũng là thơ. Và anh - Hải Bằng, ở cõi nào anh vẫn là thi sĩ...

H.N
(TCSH114/08-1998)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu

  • Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.

  • Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.

  • LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.

  • Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.

  • Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG

    Đời của nó như thể bềnh bồng
    Cái chết của nó như thể an nghỉ

                               F.Jullien
    (Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)

  • THANH TÙNG

    Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.

  • Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    I
    Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.

  • Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.

  • THẾ TƯỜNG
                   

    "Quê hương là chùm khế ngọt
    cho con trèo hái cả ngày"

  • Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế. 

  • Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

  • LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…

  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.

  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)