CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (Ảnh do Trần Viết Ngạc chụp năm 1972)
Lúc bấy giờ, mọi người đều coi Trần Viết Ngạc là “ông bầu” của anh Trịnh Công Sơn. Anh Trần Viết Ngạc vốn là một thầy giáo dạy sử, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, không hiểu duyên cớ gì lại đi làm “ông bầu” cho một nhạc sĩ!
Những năm tháng này, chiến tranh Việt Nam vô cùng ác liệt. Hằng đêm, hằng ngày, khi đang ngồi học ở giảng đường hay khi đã vào giường đi ngủ, lúc nào cũng nghe tiếng đạn đại bác dội về. Nhất là vào lúc nửa đêm, tiếng đại bác gây cho ta biết bao nỗi xót xa, căm giận. Thanh niên đi quân dịch bị chết trận đưa về ngõ phố hằng ngày, ngay cả trong giới sinh viên. Nhất là sinh viên trường y khoa, sau 5 - 6 năm miệt mài học tập, tốt nghiệp ra trường, bị động viên đi phục vụ chiến trường, năm ba tháng sau đã có người tử trận, tin báo về gia đình đi nhận xác... Nơi đâu cũng thấy quan tài, nghĩa trang và nước mắt, cho nên các bài hát trong “Ca khúc Da vàng” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dễ đi vào lòng người, tạo nên tâm lý phản chiến trong xã hội. Anh em sinh viên tranh đấu trong Tổng hội Sinh viên nhiều người chưa đồng tình lắm với quan điểm nhìn nhận lịch sử của Trịnh Công Sơn qua một số lời ca, như Gia tài của mẹ một nước Việt buồn hoặc Hai mươi năm nội chiến từng ngày; có anh em đã viết bài phê phán trong vài tờ nội san sinh viên học sinh. Dù vậy, những ca khúc phản chiến của người nhạc sĩ này vẫn được nhiêu giới yêu mến và ca hát.
Khi tôi về Đà Lạt nghỉ hè, hai anh Trịnh Công Sơn và Trần Viết Ngạc cũng lên Đà Lạt để phổ biến “Ca khúc Da vàng”. Các anh đến thăm tôi tại nhà và ngỏ ý muốn được tổ chức các đêm hát cho đồng bào Đà Lạt nghe.
Ngay đêm đầu tiên, hai anh vừa lên Đà Lạt, một người bạn của Trịnh Công Sơn đã tổ chức cho anh trình diễn tại sân nhà mình, đối diện cổng trường Bùi Thị Xuân, tôi không nhớ rõ số nhà, 70 hay 77 gì đó. Đêm “làm nháp” đầu tiên cũng đã gây xúc động trong số bạn bè quen biết ở Đà Lạt. Lúc bấy giờ, em gái tôi là Cao Thị Thu Cúc đang dạy học ở trường Trung học tư thục Việt Anh, lại đang theo học Khoa Việt Hán Trường Đại học Đà Lạt, là Trường của Đoàn nữ Hướng đạo Đà Lạt, đã xin phép thầy Lê Phỉ, Hiệu trưởng Trường tư thục Việt Anh tổ chức đêm nhạc Trịnh Công Sơn. Được thầy Lê Phỉ đồng ý, các nữ hướng đạo sinh và chị em chúng tôi chia nhau đi rủ rê từ xóm Nhà Bò - tức khu vực đường Đào Duy Từ, đến đường Hoàng Diệu, nơi nào có nữ hướng đạo ở thì cổ động rủ người đi nghe nhạc Trịnh Công Sơn nơi đó. Chúng tôi còn kẻ giấy dán trên các cột đèn, các vách tường dọc đường đi, mời “Đồng bào các bạn đón nghe nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại sân trường Việt Anh”. Về phía hai anh Sơn và Ngạc, bạn bè các anh chắc cũng rủ rê như vậy.
Đến đêm trình diễn, sân trường Việt Anh đông nghẹt người. Không có sân khấu, không có đốt lửa trại. Dưới ánh đèn bình thường, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ôm đàn hát, khán giả đứng xung quanh sân. Sau mỗi bài hát, đồng bào vỗ tay giòn dã. Nhiều người đi chợ, đi làm về cũng đứng lại lắng nghe, rồi dần dần bước vô sân trường. Khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hát đến bài “Ru con”: “Ngủ đi con, ngủ đi con, đứa con da vàng của mẹ... Mẹ mang đầy bụng mẹ bồng trên tay. Ru con ru đã bao lần...ru con viên đạn làm hồng vết thương. Hai mươi năm đàn con đi lính đi rồi không về...”, tôi nghe có ai đó nấc lên. Đêm hát thành công ngoài dự đoán, cả người hát và người tổ chức đều rất phấn khởi.
![]() |
Trịnh Công Sơn tập cho sinh viên Huế hát một ca khúc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc - Ảnh của Lê Văn Lợi, công bố lần đầu |
![]() |
Ba đêm sau, cũng đoàn nữ hướng đạo, em gái tôi lại xin phép linh mục Nguyễn Văn Lập, Viện trưởng Viện Đại học Đà Lạt tổ chức một đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại giảng đường Spellman cho sinh viên đại học Đà Lạt nghe. Anh em sinh viên đến dự rất đông, có cả người ngoài Viện Đại học cũng vào dự. Người nghe ngồi chật cả giảng đường. Giữa hai bài hát, các em nữ hướng đạo mặc đồng phục hướng đạo sinh, lên tặng nhạc sĩ bó hoa hồng và mấy viên xí muội!
Phần tôi, tuy nhiệt tình cổ động cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng có điều gì đó tôi chưa đồng ý. Qua bài Người gái Việt có câu: Người con gái Việt Nam da vàng, yêu quê hương nên yêu người yếu kém. Tôi lựa lúc hỏi: “Sao người con gái Việt Nam yêu quê hương phải yêu người yêu kém?” Tất nhiên là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phải có cách giải thích và trả lời về “người yếu kém” đó là ai - là những người Việt Nam nghèo khổ, là những nạn nhân chiến tranh v.v.
Sau mùa hè đó, tôi không có dịp gặp lại cả hai anh. Rồi tôi thi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, chọn nhiệm sở về dạy học tại trường nữ trung học Đoàn Thị Điểm ở Cần Thơ. Khi dạy học, tôi thường đem các bài hát của Trịnh Công Sơn và Miên Đức Thắng ra tập cho học sinh của tôi và được các em rất thích. Nhưng khi bà hiệu trưởng biết được, bà liền mời tôi lên văn phòng “làm việc”...
Sau đợt I Tết Mậu Thân năm 1968, tôi bỏ dạy và thoát ly hoạt động nội thành Sài Gòn cho đến tháng 3 năm 1970 thì tôi bị bắt cùng với 21 anh em sinh viên học sinh khác, trong đó có sinh viên Huỳnh Tân Mâm là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên lúc bấy giờ và cả anh Nguyễn Ngọc Phương, người chồng sắp cưới của tôi. Tôi bị bắt hai tuần trước ngày gia đình tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Chúng tôi bị đánh la liệt, nhiều người chết đi sống lại phải đưa đi cấp cứu. Phong trào đấu tranh bên ngoài vẫn mạnh mẽ với các cuộc mít tinh, hội thảo, biểu tình, tuyệt thực, bãi khóa... diễn ra hàng ngày trên các đường phố Sài Gòn, lôi kéo nhiều giới ủng hộ, tham gia như các giáo sư đại học, nghị sĩ, dân biểu, linh mục, đại đức tăng ni Phật giáo, phụ nữ chợ Sài Gòn, công nhân các xí nghiệp… Phong trào lan ra các trường đại học ở Huế, Cần Thơ... Khi chúng tôi được đưa qua nhà tù Chí Hòa để chờ ngày ra tòa án mặt trận vùng 3 chiến thuật, một hôm tôi được kêu đi thăm nuôi và bất ngờ được gặp anh Nguyễn Ngọc Phương. Anh Phương đưa cho tôi một bài hát chép tay, có kẻ nhạc và chữ viết của anh Trịnh Công Sơn đề tặng chị Quế Hương và anh Nguyễn Ngọc Phương. Được biết, anh Trịnh Công Sơn đã nhờ anh Trần Viết Ngạc tìm cách chuyển bản nhạc này vào nhà tù Chí Hòa khi anh Ngạc vào thăm giáo sư Trần Hữu Khuê cũng bị giam giữ tại đây.
Tôi cầm bản nhạc, đọc lời: “Toàn thân em đã có vết bầm, trên da anh cực hình tra tấn. Trên thân chị nhục nhằn đau thương. Triệu bàn tay chúng ta bước đi trên mặt tôi đòi. Trong tim mỗi người là một đồng lúa mới. Ta hiên ngang bên thú mặt người. Chặt cùm xích cho quê hương mỉm cười...”.
Sau khi ra tòa, tôi được tạm phóng thích cùng 10 anh chị em khác. Chúng tôi hòa nhập vào phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh và đồng bào Sài Gòn đang dâng cao và tôi đã cùng bạn bè hát thuộc bài hát này - bài hát do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã gởi vào nhà tù Chí Hòa tặng cho chúng tôi. Thật đáng tiếc, là sau nhiều năm cuộc sống và tranh đấu có nhiều xáo trộn, bài hát viết tay do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gởi tặng tôi không còn giữ được, nhưng lời ca và nét nhạc thì tôi không quên.
C.T.Q.H
(SDB13/06-14)
TRẦN HUYỀN ÂN
Tôi thường hay nghĩ về tết gắn liền với hình ảnh của mạ tôi - người thường kể cho tôi nghe câu chuyện tết bằng câu mở đầu: “Hồi nớ, tết là...”.
Kinh tặng, hương hồn nghệ sĩ Châu Thành
“Những con hổ xám đường 14” là biệt danh mà nguyên Thành đội trưởng Huế Thân Trọng Một dùng để tôn vinh một Trung đội bộ đội địa phương Quận 4 miền Tây Thừa Thiên do A Lơn chỉ huy.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm, kết thúc bằng Điện Biên Phủ lẫy lừng, chờ tổng tuyển cử sau Hiệp định Genève hai năm mòn mỏi, quân dân ta còn phải trường kỳ kháng Mỹ dài mấy mươi năm.
LÊ XUÂN VIỆT
Sau ngày miền Nam giải phóng (Xuân 1975) tôi chuyển công tác từ Đại học tổng hợp Hà Nội vào Huế. Ở thành phố đẹp và thơ, đầy mơ mộng này rất hợp ngành văn mà tôi say mê và theo đuổi từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.
PHẠM HỮU THU Nếu không nghe những nhận xét, dù kiệm lời của những vị cựu lãnh đạo địa phương và không trực tiếp kiểm chứng, thú thật là tôi không thể viết về con người này, một con người không chỉ dũng cảm trong chiến đấu mà còn giàu lòng nhân ái đối với đối phương và tận tâm vì nghĩa tình đồng đội. Người đó là ông Lê Hữu Tòng, nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Hương Thủy!
Hồng Thế vừa làm thơ vừa cày ruộng ở quê. Cách đây mấy năm, anh có con bò già không cày được nữa, phải bán đi để mua bò mới.
TẤN HOÀI
bút ký
Nhà văn Graham Grin có một quyển tiểu thuyết "MỘT NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG".
NHẤT LÂM
Bút ký
NGUYỄN PHÚC ƯNG ÂN
Hồi ký
Tôi tỉnh giấc. Ngoảnh sang bên cạnh thấy các bạn đã ngồi dậy. Nằm yên trong bóng đêm, tôi thử tính xem mình đang còn cách Huế mấy cây số.
HỮU THU - CHIẾN HỮU
Ghi chép
Cuối năm ngoái, huyện Hương Trà tổ chức khánh thành hồ chứa nước Khe Rưng.
THANH THANH
Thật bất ngờ đọc lại một năm thơ Sông Hương dưới trăng rằm mười bốn chạp rồi ngơ ngẩn bấm đốt tay.
HÀ KHÁNH LINH - NGUYỄN KHẮC PHÊ
Chuẩn bị ra số kỷ niệm 10 năm giải phóng, Tòa soạn Tạp chí Sông Hương đã có kế hoạch phỏng vấn đồng chí Vũ Thắng, ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, nhưng chương trình làm việc trong tuần của đồng chí văn phòng đã xếp quá chật.
PHẠM HUY LIỆU
Hồi ký
Đầu tháng 9/1968 tôi điều trị ở Bệnh viện Binh trạm 34, tỉnh Saravane, Nam Lào. Viện nằm trong thung lũng. Xung quanh nhiều núi cao rừng già nên cũng ít bị máy bay Mỹ quấy nhiễu.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Bắt sáu tên giặc Pháp nhảy dù xuống huyện Phong Điền.
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế thắng lợi, chiều cùng ngày, tại Sân vận động Bảo Long (về sau đổi gọi là Sân vận động Tự Do), trước hàng vạn đồng bào dự mít tinh, Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên được thành lập và ra mắt, do nhà giáo Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Tôi tỉnh giấc khi trời còn tối, nhưng không sao ngủ được nữa. Không phải vì tiếng động của những guồng máy quay, tiếng những vành thép nghiền vỡ vụn đá và cờ-lanh-ke.
TRẦN SỬ kể
HOÀNG NHÂN ghi
Chiến tranh du kích ở huyện Hương Thủy trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã diễn ra với nhiều hình thức chiến đấu đầy tính chất sáng tạo của toàn dân.
NGÔ MINH
Đối với anh em làm thơ, viết văn ở ba tỉnh Bình - Trị - Thiên trong nhiều chục năm qua, nhà thơ Hải Bằng là người không thể quên!
HỒNG NHU
Tôi biết anh, đọc anh từ trong kháng chiến chống Pháp, nhưng mỗi người một đơn vị công tác, mãi đến năm 1972 mới gặp nhau. Đó là một ngày mùa hè, bấy giờ Đông Hà vừa mới được giải phóng.