Những kỷ niệm về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

09:21 15/07/2014

CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (Ảnh do Trần Viết Ngạc chụp năm 1972)

Lúc bấy giờ, mọi người đều coi Trần Viết Ngạc là “ông bầu” của anh Trịnh Công Sơn. Anh Trần Viết Ngạc vốn là một thầy giáo dạy sử, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, không hiểu duyên cớ gì lại đi làm “ông bầu” cho một nhạc sĩ!

Những năm tháng này, chiến tranh Việt Nam vô cùng ác liệt. Hằng đêm, hằng ngày, khi đang ngồi học ở giảng đường hay khi đã vào giường đi ngủ, lúc nào cũng nghe tiếng đạn đại bác dội về. Nhất là vào lúc nửa đêm, tiếng đại bác gây cho ta biết bao nỗi xót xa, căm giận. Thanh niên đi quân dịch bị chết trận đưa về ngõ phố hằng ngày, ngay cả trong giới sinh viên. Nhất là sinh viên trường y khoa, sau 5 - 6 năm miệt mài học tập, tốt nghiệp ra trường, bị động viên đi phục vụ chiến trường, năm ba tháng sau đã có người tử trận, tin báo về gia đình đi nhận xác... Nơi đâu cũng thấy quan tài, nghĩa trang và nước mắt, cho nên các bài hát trong “Ca khúc Da vàng” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dễ đi vào lòng người, tạo nên tâm lý phản chiến trong xã hội. Anh em sinh viên tranh đấu trong Tổng hội Sinh viên nhiều người chưa đồng tình lắm với quan điểm nhìn nhận lịch sử của Trịnh Công Sơn qua một số lời ca, như Gia tài ca m mt nước Vit bun hoặc Hai mươi năm ni chiến tng ngày; có anh em đã viết bài phê phán trong vài tờ nội san sinh viên học sinh. Dù vậy, những ca khúc phản chiến của người nhạc sĩ này vẫn được nhiêu giới yêu mến và ca hát.

Khi tôi về Đà Lạt nghỉ hè, hai anh Trịnh Công Sơn và Trần Viết Ngạc cũng lên Đà Lạt để phổ biến “Ca khúc Da vàng”. Các anh đến thăm tôi tại nhà và ngỏ ý muốn được tổ chức các đêm hát cho đồng bào Đà Lạt nghe.

Ngay đêm đầu tiên, hai anh vừa lên Đà Lạt, một người bạn của Trịnh Công Sơn đã tổ chức cho anh trình diễn tại sân nhà mình, đối diện cổng trường Bùi Thị Xuân, tôi không nhớ rõ số nhà, 70 hay 77 gì đó. Đêm “làm nháp” đầu tiên cũng đã gây xúc động trong số bạn bè quen biết ở Đà Lạt. Lúc bấy giờ, em gái tôi là Cao Thị Thu Cúc đang dạy học ở trường Trung học tư thục Việt Anh, lại đang theo học Khoa Việt Hán Trường Đại học Đà Lạt, là Trường của Đoàn nữ Hướng đạo Đà Lạt, đã xin phép thầy Lê Phỉ, Hiệu trưởng Trường tư thục Việt Anh tổ chức đêm nhạc Trịnh Công Sơn. Được thầy Lê Phỉ đồng ý, các nữ hướng đạo sinh và chị em chúng tôi chia nhau đi rủ rê từ xóm Nhà Bò - tức khu vực đường Đào Duy Từ, đến đường Hoàng Diệu, nơi nào có nữ hướng đạo ở thì cổ động rủ người đi nghe nhạc Trịnh Công Sơn nơi đó. Chúng tôi còn kẻ giấy dán trên các cột đèn, các vách tường dọc đường đi, mời “Đồng bào các bn đón nghe nhc sĩ Trnh Công Sơn ti sân trường Vit Anh”. Về phía hai anh Sơn và Ngạc, bạn bè các anh chắc cũng rủ rê như vậy.

Đến đêm trình diễn, sân trường Việt Anh đông nghẹt người. Không có sân khấu, không có đốt lửa trại. Dưới ánh đèn bình thường, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ôm đàn hát, khán giả đứng xung quanh sân. Sau mỗi bài hát, đồng bào vỗ tay giòn dã. Nhiều người đi chợ, đi làm về cũng đứng lại lắng nghe, rồi dần dần bước vô sân trường. Khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hát đến bài “Ru con”: “Ng đi con, ng đi con, đứa con da vàng ca m... M mang đầy bng m bng trên tay. Ru con ru đã bao ln...ru con viên đạn làm hng vết thương. Hai mươi năm đàn con đi lính đi ri không v...”, tôi nghe có ai đó nấc lên. Đêm hát thành công ngoài dự đoán, cả người hát và người tổ chức đều rất phấn khởi.
 

Trịnh Công Sơn tập cho sinh viên Huế hát một ca khúc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc - Ảnh của Lê Văn Lợi, công bố lần đầu


Ba đêm sau, cũng đoàn nữ hướng đạo, em gái tôi lại xin phép linh mục Nguyễn Văn Lập, Viện trưởng Viện Đại học Đà Lạt tổ chức một đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại giảng đường Spellman cho sinh viên đại học Đà Lạt nghe. Anh em sinh viên đến dự rất đông, có cả người ngoài Viện Đại học cũng vào dự. Người nghe ngồi chật cả giảng đường. Giữa hai bài hát, các em nữ hướng đạo mặc đồng phục hướng đạo sinh, lên tặng nhạc sĩ bó hoa hồng và mấy viên xí muội!

Phần tôi, tuy nhiệt tình cổ động cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng có điều gì đó tôi chưa đồng ý. Qua bài Người gái Vit có câu: Người con gái Vit Nam da vàng, yêu quê hương nên yêu người yếu kém. Tôi lựa lúc hỏi: “Sao người con gái Việt Nam yêu quê hương phải yêu người yêu kém?” Tất nhiên là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phải có cách giải thích và trả lời về “người yếu kém” đó là ai - là những người Việt Nam nghèo khổ, là những nạn nhân chiến tranh v.v.

Sau mùa hè đó, tôi không có dịp gặp lại cả hai anh. Rồi tôi thi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, chọn nhiệm sở về dạy học tại trường nữ trung học Đoàn Thị Điểm ở Cần Thơ. Khi dạy học, tôi thường đem các bài hát của Trịnh Công Sơn và Miên Đức Thắng ra tập cho học sinh của tôi và được các em rất thích. Nhưng khi bà hiệu trưởng biết được, bà liền mời tôi lên văn phòng “làm việc”...

Sau đợt I Tết Mậu Thân năm 1968, tôi bỏ dạy và thoát ly hoạt động nội thành Sài Gòn cho đến tháng 3 năm 1970 thì tôi bị bắt cùng với 21 anh em sinh viên học sinh khác, trong đó có sinh viên Huỳnh Tân Mâm là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên lúc bấy giờ và cả anh Nguyễn Ngọc Phương, người chồng sắp cưới của tôi. Tôi bị bắt hai tuần trước ngày gia đình tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Chúng tôi bị đánh la liệt, nhiều người chết đi sống lại phải đưa đi cấp cứu. Phong trào đấu tranh bên ngoài vẫn mạnh mẽ với các cuộc mít tinh, hội thảo, biểu tình, tuyệt thực, bãi khóa... diễn ra hàng ngày trên các đường phố Sài Gòn, lôi kéo nhiều giới ủng hộ, tham gia như các giáo sư đại học, nghị sĩ, dân biểu, linh mục, đại đức tăng ni Phật giáo, phụ nữ chợ Sài Gòn, công nhân các xí nghiệp… Phong trào lan ra các trường đại học ở Huế, Cần Thơ... Khi chúng tôi được đưa qua nhà tù Chí Hòa để chờ ngày ra tòa án mặt trận vùng 3 chiến thuật, một hôm tôi được kêu đi thăm nuôi và bất ngờ được gặp anh Nguyễn Ngọc Phương. Anh Phương đưa cho tôi một bài hát chép tay, có kẻ nhạc và chữ viết của anh Trịnh Công Sơn đề tặng chị Quế Hương và anh Nguyễn Ngọc Phương. Được biết, anh Trịnh Công Sơn đã nhờ anh Trần Viết Ngạc tìm cách chuyển bản nhạc này vào nhà tù Chí Hòa khi anh Ngạc vào thăm giáo sư Trần Hữu Khuê cũng bị giam giữ tại đây.

Tôi cầm bản nhạc, đọc lời: “Toàn thân em đã có vết bầm, trên da anh cc hình tra tn. Trên thân ch nhc nhn đau thương. Triệu bàn tay chúng ta bước đi trên mt tôi đòi. Trong tim mi người là mt đồng lúa mi. Ta hiên ngang bên thú mt người. Cht cùm xích cho quê hương mm cười...”.

Sau khi ra tòa, tôi được tạm phóng thích cùng 10 anh chị em khác. Chúng tôi hòa nhập vào phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh và đồng bào Sài Gòn đang dâng cao và tôi đã cùng bạn bè hát thuộc bài hát này - bài hát do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã gởi vào nhà tù Chí Hòa tặng cho chúng tôi. Thật đáng tiếc, là sau nhiều năm cuộc sống và tranh đấu có nhiều xáo trộn, bài hát viết tay do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gởi tặng tôi không còn giữ được, nhưng lời ca và nét nhạc thì tôi không quên.

C.T.Q.H
(SDB13/06-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THANH TÙNG  

    Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.

  • NGUYỄN QUANG HÀ  

    Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.


  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU

                        (Trích)

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Ngày 22/7/2021, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức buổi tọa đàm khoa học lấy ý kiến cho Đề án xây dựng Phòng Truyền thống Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.

  • DƯƠNG HOÀNG  

    Trải qua những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã từng bước được rèn luyện, thử thách trong gian khó và cùng lớn lên với những tên gọi, những hoạt động, nhiệm vụ cũng thay đổi qua từng giai đoạn để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tại của phong trào cách mạng.

  • HÀ KHÁNH LINH

    Còn sống sót sau 30/4/1975 chúng tôi thường tìm đến nhau dẫu có người thân thể không còn nguyên vẹn, hoặc mắc một số bệnh nào đó do di chứng của chất độc hóa học màu da cam Diocine của Mỹ, hoặc bị sốt rét ác tính, hoặc bị tra tấn khi rơi vào tay giặc…

  • NGUYỄN QUANG HÀ  

    Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng. 

  • PHƯỚC HOÀNG   

    Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động Huế, trước sự chứng kiến của hơn một vạn người, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên tuyên bố, chính quyền đã về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên.

  • MẶC HY

    (Nhớ về nhạc sĩ Nguyễn Hồng và các bạn văn nghệ hy sinh 40 năm trước)

  • MINH ĐẠO

    Khi tôi viết nhưng dòng này, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Bóng tối bao phủ lấy tôi đã 10 năm qua rồi.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh Võ Giáp, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước, mà thân phụ là một “thầy đồ” trường huyện.

  • XUÂN HOÀNG
              Hồi ký

    (Trích Chương V, tập II - "Trường tư thục Thuận Hóa")

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Người già thường hay nghĩ ngợi về quá khứ. Không biết có phải vì thế hay không mà khi đọc lại Biên niên Sông Hương[1], tôi bỗng nhớ đến một cuộc hội thảo về Tạp chí Sông Hương diễn ra cách đây gần tròn 37 năm.

  • VŨ THỊ THANH LOAN  

    1. Lemur Nguyễn Cát Tường là một họa sĩ trẻ tài năng của khóa IV trường Mỹ thuật Đông Dương (1928 - 1933). Sau khi tốt nghiệp, ông thường xuyên cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!

  • TRẦN TRUNG SÁNG  

    Khoảng mùa đông 1970 - 1971, khi đang còn đang học lớp 10, trong một chuyến phiêu lưu lãng mạn và rồ dại nhất của tuổi thiếu niên, tôi có lần lạc bước đến một xóm nhỏ gần bên cầu Gia Hội, và đã gặp ông: họa sĩ Lê Vinh, người họa sĩ vẽ tranh xi-nê lừng danh nhất xứ Huế thời bấy giờ. Lúc này, ông chừng độ tuổi 30, người dong dỏng, tóc vuốt ngược, sơmi màu, quần jean, giày cổ cao, dáng dấp phong trần, như bước ra từ màn bạc!

  • HOÀNG PHƯỚC   

    Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ, tiếp đó, ngày 24 tháng 2 năm 1946, cử tri toàn tỉnh Thừa Thiên phấn khởi nô nức đi bầu Hội đồng Nhân dân tỉnh và Hội đồng Nhân dân thành phố Huế. Đây là ngày hội lớn chưa từng có trong lịch sử của toàn thể Nhân dân Việt Nam sau ngày đất nước được độc lập.

  • TRẦN NGUYÊN HÀO  

    Năm 1946, lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam được hưởng và thực thi quyền làm chủ, tự do lựa chọn bầu ra những người đại diện xứng đáng gánh vác công việc chung của đất nước; cùng với đó là những tư tưởng về dân chủ, pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bài học giá trị cho mai sau.