Những giá trị trường tồn

16:56 22/01/2020

“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” thường được nhắc đến như biểu tượng của Tết Việt. Thực tế, Tết ở các vùng miền trên cả nước phong phú, đa dạng hơn, trải qua các thời kỳ lịch sử lại thay đổi nhiều. Tuy nhiên, giá trị căn cốt và thiêng liêng của Tết thì giống nhau, và vẫn đang được lưu giữ, tiếp nối qua thời gian.

Giá trị căn cốt của Tết là sự đoàn viên, sum họp

Vị Tết trong miền nhớ

Tết năm nào cũng đến, nhưng vẫn là niềm mong mỏi, háo hức của nhiều người. Bên cạnh việc rộn ràng chuẩn bị cho ngày Tết, thời khắc chuyển từ năm cũ sang năm mới cũng là lúc ký ức về những cái Tết đã qua ùa về trong mỗi người, với dư vị thật đẹp.

Chứng kiến sự đổi thay của Tết nhiều thời kỳ, nhà văn Đỗ Phấn vẫn nhớ đến một giai đoạn đặc biệt. “Thời tem phiếu nhọc nhằn, ngày Tết cả gia đình chỉ cần một người ra Bách hóa tổng hợp xếp hàng mua túi hàng Tết theo tiêu chuẩn. Một thứ tiêu chuẩn rất tượng trưng. Túi hàng của gia đình sáu người ngày ấy không đủ cho một người dùng bây giờ. Rất khó quên gói hạt tiêu bột nhỏ đúng bằng gói thuốc tím rửa rau ở hiệu thuốc. Rắc vào thịt gói bánh chưng thì thôi xào nấu. Túi mì chính vài chục gram nếu để ở quán phở đầu cầu bây giờ chưa đủ cho vào hai bát. Miếng bóng bì lợn bằng hai bàn tay ngâm ngâm tẩy tẩy cắt ra xào súp lơ mộc nhĩ một lần là hết. Đặc biệt có bánh pháo năm đùng năm xịt là làm người ta hồi hộp đến phát sợ. Cứ phải mua thêm một bánh ở ngoài cho chắc ăn. Đốt bánh pháo phiếu không nổ còn có cái mà đốt tiếp cho khỏi xúi quẩy...”.

“Quê tôi ở Tứ Liên, xưa là ngoại thành Hà Nội, nay đã lên phường thuộc quận Tây Hồ. Và quất Tứ Liên đã thành thương hiệu của quê tôi ngày Tết. Lũ trẻ con vô cùng thích thú chơi trò trốn tìm trong vườn quất trồng thẳng tắp nhưng vẫn rất um tùm với tuổi thơ. Chúng lom khom chạy nấp dưới tán lá xanh đã lác đác quả chín. Và bố mẹ chốc chốc lại hét: “Rụng hết quả là mất Tết đấy con ơi!” - Chúng con biết rồi mà”... Nhưng khi chơi xong, trên đầu lũ trẻ dắt đầy những đóa hoa trắng xinh - mà bố mẹ hiểu là hoa đã đậu đủ quả rồi, giờ có rụng vài bông cũng không sao...” - nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn kể về những ngày Tết xa xăm.

Trong miền nhớ của nhiều người, Tết thường gắn liền với những giây phút quây quần đầm ấm bên gia đình. Nhà văn Y Phương, người con của dân tộc Tày chia sẻ: “Một năm có mười hai tháng, mỗi tháng cổ nhân nghĩ ra một cái Tết nho nhỏ để cho con cháu nhớ mùa. Nhưng Tết Nguyên đán là thời khắc quan trọng nhất của một năm. Và nó đã trở thành nét tinh hoa văn hóa Tết”. Với ông, mỗi cái Tết gắn liền với kỷ niệm tuổi thơ không bao giờ quên, nhất là Tết Nguyên đán, dịp để gặp gỡ, đoàn viên gia đình. Trẻ con được mặc áo mới, được ăn quà, được tiền mừng tuổi. Người già gặp gỡ nhau, chuyện trò vui vẻ...

Như một thói quen, sự nhớ nhung ấy lại được đem so sánh với Tết nay, và thật kỳ lạ, bao giờ những ký ức về Tết cũng hiện lên đầm ấm hơn.

Thiếu những tất bật, niềm vui

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vỹ, ít nhất hai nghìn năm, khi cộng đồng Việt cổ tiếp xúc với âm lịch, Tết Nguyên đán đã được thực hành trong đời sống văn hóa như là thành phần cơ hữu của toàn bộ hệ thống. Nó là thời điểm tích lũy, bùng nổ những ứng xử, thành tựu văn hóa của cả một cộng đồng. Từ một lễ tiết đánh dấu kết thúc vòng quay một năm, bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, Tết ở một số nước phương Đông thực sự đã trở thành sinh hoạt mang tính lễ hội quan trọng.

Thời kỳ trước, các cụ nói “ăn Tết”, chứ không phải “chơi Tết”, có lẽ do ngày đó, nước ta còn nghèo, thiếu nhiều thứ, chờ đến Tết mới có bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành. Từ tháng Chạp, các bà, các mẹ lại lo mua sắm, tích trữ, chuẩn bị đồ ăn cho Tết; người ở nhà lo dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, rồi cả nhà quây quần gói bánh chưng, vây quanh nồi bánh chưng kể chuyện, nói cười vui vẻ, đầm ấm.

Nhưng mọi thứ đã đổi thay. Ở nhiều nơi, giờ đây bất kể ngày nào, người ta cũng có thể ăn như Tết, nên đến kỳ lễ lớn nhất trong năm không còn quan trọng miếng ăn, nấu nướng thịnh soạn. Nhiều nhà ba mươi Tết mới bắt đầu đi sắm sửa, thậm chí ngồi nhà đặt hàng qua điện thoại, qua mạng internet, chốc lát đã có người mang đến tận cửa, nào cặp bánh chưng, gà giò, dưa hành; các loại mứt, hạt, hoa quả bán khắp nơi... Thế là xong cái Tết!

Tết rộn ràng hơn, nhanh gọn hơn, song người từng trải qua những cái Tết cách đây hai chục năm trở về trước tiếc nuối không khí Tết Cổ truyền. Tết nay giàu vật chất hơn nhưng phong vị Tết đã nhạt dần, bởi thiếu những tất bật, niềm vui, mùi vị không bao giờ còn tìm thấy nữa.

“Ngày nay, nhiều gia đình, các bạn trẻ không còn để tâm, thậm chí Tết đi chơi, không ở nhà ăn Tết, sắm sửa gì. Không có không khí Tết, mỗi ngày lại suy giảm một ít niềm vui đón Tết, những người lớn tuổi như chúng tôi cảm thấy mất mát khá nhiều. Tôi vẫn ao ước một lúc nào đó lớp trẻ sẽ quan tâm hưởng thụ cho đúng nghĩa không khí Tết, đó cũng là cách hưởng thụ rất hay” - nhà văn Đỗ Phấn chia sẻ.

Giá trị căn cốt

Từng có lúc, Tết trở nên quá cầu kỳ, kỹ lưỡng, và xen lẫn cả mệt mỏi, áp lực, thậm chí có ý kiến kêu gọi bỏ Tết truyền thống. Gần đây, một số người có xu hướng quay về với sự tối giản: Tết không bày biện quá nhiều, tập trung vào các giá trị tinh thần chứ không phải là vật chất, để người khác trông vào đo đếm, đánh giá ở đâu Tết to, Tết nhỏ. Nhà văn, nhà báo Lữ Mai cho rằng, tinh thần của Tết Việt đã là tối giản: Các cụ ngày xưa không bày biện nhiều, dù sự chuẩn bị cho Tết rất cẩn trọng, nâng niu, nhưng rõ ràng không nhiêu khê, sự nhiêu khê là do đời sống, biến tấu của con người trong xã hội hiện đại. Trong khi những cái đó không thuộc giá trị căn cốt của Tết.

Giá trị căn cốt của Tết chính là sự đoàn viên, sum họp, sự giao hòa giữa đất trời và con người, giữa con người với con người. Nhờ có Tết mà người ta trò chuyện, đối thoại, chia sẻ với nhau nhiều hơn, nói về những gì đã qua, nghĩ về những điều chưa tới… “Tôi được đón Tết thuở ấu thơ ở làng quê nghèo, cho đến khi ở trọ phố phường là Hà Nội, rồi cái Tết ở quê chồng, cũng có những cái Tết di chuyển đến vùng miền khác. Sự ắp đầy, phong phú, khác biệt, nhưng Tết Việt lại mang tinh thần xuyên suốt là sự đoàn viên, sum họp” - nhà văn, nhà báo Lữ Mai nói.

Sự thay đổi trong cách đón Tết, ăn Tết, chơi Tết cho phù hợp với giá trị sống hiện nay là điều không thể khác. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vỹ: “Trong tính bảo lưu đậm đà của nó, Tết cũng không từ chối những tiếp biến, phát triển. Văn hóa mãi mãi là vậy. Uyển chuyển, thực tiễn và phong phú. Tết từng thời, từng hoàn cảnh có những biến đổi khác đi. Trong chiến tranh, thiên tai, hoạn nạn... chúng ta có những cái Tết khác. Trong thời bình làm ăn buôn bán Tết có những biểu hiện khác hơn. Tết phố thị khác Tết nông thôn. Tết du lịch khác Tết hồi hương. Tết không cố chấp những ứng xử cứng nhắc, song tâm thức hướng về nguồn cội, kỳ vọng tương lai thì Tết lưu giữ mãi mãi... Vấn đề cuối cùng là, không phải bỏ đi một di sản văn hóa truyền đời mà chúng ta cần nhận thức, bảo lưu giá trị, phát triển và thực hành, quảng bá nó như thế nào”.

Theo Thảo Nguyên - ĐBND
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • “Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

  • Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.

  • Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?

  • Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.

  • Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.

  • Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…

  • Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”

  • Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.

  • Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.

  • L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.

  • Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.

  • Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...

  • Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.

  • Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

  • Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thì trong tài nguyên, cũng có tài nguyên phi vật thể- tài nguyên con người.

  • Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.

  • Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.

  • Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.