“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” thường được nhắc đến như biểu tượng của Tết Việt. Thực tế, Tết ở các vùng miền trên cả nước phong phú, đa dạng hơn, trải qua các thời kỳ lịch sử lại thay đổi nhiều. Tuy nhiên, giá trị căn cốt và thiêng liêng của Tết thì giống nhau, và vẫn đang được lưu giữ, tiếp nối qua thời gian.
Giá trị căn cốt của Tết là sự đoàn viên, sum họp
Vị Tết trong miền nhớ
Tết năm nào cũng đến, nhưng vẫn là niềm mong mỏi, háo hức của nhiều người. Bên cạnh việc rộn ràng chuẩn bị cho ngày Tết, thời khắc chuyển từ năm cũ sang năm mới cũng là lúc ký ức về những cái Tết đã qua ùa về trong mỗi người, với dư vị thật đẹp.
Chứng kiến sự đổi thay của Tết nhiều thời kỳ, nhà văn Đỗ Phấn vẫn nhớ đến một giai đoạn đặc biệt. “Thời tem phiếu nhọc nhằn, ngày Tết cả gia đình chỉ cần một người ra Bách hóa tổng hợp xếp hàng mua túi hàng Tết theo tiêu chuẩn. Một thứ tiêu chuẩn rất tượng trưng. Túi hàng của gia đình sáu người ngày ấy không đủ cho một người dùng bây giờ. Rất khó quên gói hạt tiêu bột nhỏ đúng bằng gói thuốc tím rửa rau ở hiệu thuốc. Rắc vào thịt gói bánh chưng thì thôi xào nấu. Túi mì chính vài chục gram nếu để ở quán phở đầu cầu bây giờ chưa đủ cho vào hai bát. Miếng bóng bì lợn bằng hai bàn tay ngâm ngâm tẩy tẩy cắt ra xào súp lơ mộc nhĩ một lần là hết. Đặc biệt có bánh pháo năm đùng năm xịt là làm người ta hồi hộp đến phát sợ. Cứ phải mua thêm một bánh ở ngoài cho chắc ăn. Đốt bánh pháo phiếu không nổ còn có cái mà đốt tiếp cho khỏi xúi quẩy...”.
“Quê tôi ở Tứ Liên, xưa là ngoại thành Hà Nội, nay đã lên phường thuộc quận Tây Hồ. Và quất Tứ Liên đã thành thương hiệu của quê tôi ngày Tết. Lũ trẻ con vô cùng thích thú chơi trò trốn tìm trong vườn quất trồng thẳng tắp nhưng vẫn rất um tùm với tuổi thơ. Chúng lom khom chạy nấp dưới tán lá xanh đã lác đác quả chín. Và bố mẹ chốc chốc lại hét: “Rụng hết quả là mất Tết đấy con ơi!” - Chúng con biết rồi mà”... Nhưng khi chơi xong, trên đầu lũ trẻ dắt đầy những đóa hoa trắng xinh - mà bố mẹ hiểu là hoa đã đậu đủ quả rồi, giờ có rụng vài bông cũng không sao...” - nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn kể về những ngày Tết xa xăm.
Trong miền nhớ của nhiều người, Tết thường gắn liền với những giây phút quây quần đầm ấm bên gia đình. Nhà văn Y Phương, người con của dân tộc Tày chia sẻ: “Một năm có mười hai tháng, mỗi tháng cổ nhân nghĩ ra một cái Tết nho nhỏ để cho con cháu nhớ mùa. Nhưng Tết Nguyên đán là thời khắc quan trọng nhất của một năm. Và nó đã trở thành nét tinh hoa văn hóa Tết”. Với ông, mỗi cái Tết gắn liền với kỷ niệm tuổi thơ không bao giờ quên, nhất là Tết Nguyên đán, dịp để gặp gỡ, đoàn viên gia đình. Trẻ con được mặc áo mới, được ăn quà, được tiền mừng tuổi. Người già gặp gỡ nhau, chuyện trò vui vẻ...
Như một thói quen, sự nhớ nhung ấy lại được đem so sánh với Tết nay, và thật kỳ lạ, bao giờ những ký ức về Tết cũng hiện lên đầm ấm hơn.
Thiếu những tất bật, niềm vui
Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vỹ, ít nhất hai nghìn năm, khi cộng đồng Việt cổ tiếp xúc với âm lịch, Tết Nguyên đán đã được thực hành trong đời sống văn hóa như là thành phần cơ hữu của toàn bộ hệ thống. Nó là thời điểm tích lũy, bùng nổ những ứng xử, thành tựu văn hóa của cả một cộng đồng. Từ một lễ tiết đánh dấu kết thúc vòng quay một năm, bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, Tết ở một số nước phương Đông thực sự đã trở thành sinh hoạt mang tính lễ hội quan trọng.
Thời kỳ trước, các cụ nói “ăn Tết”, chứ không phải “chơi Tết”, có lẽ do ngày đó, nước ta còn nghèo, thiếu nhiều thứ, chờ đến Tết mới có bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành. Từ tháng Chạp, các bà, các mẹ lại lo mua sắm, tích trữ, chuẩn bị đồ ăn cho Tết; người ở nhà lo dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, rồi cả nhà quây quần gói bánh chưng, vây quanh nồi bánh chưng kể chuyện, nói cười vui vẻ, đầm ấm.
Nhưng mọi thứ đã đổi thay. Ở nhiều nơi, giờ đây bất kể ngày nào, người ta cũng có thể ăn như Tết, nên đến kỳ lễ lớn nhất trong năm không còn quan trọng miếng ăn, nấu nướng thịnh soạn. Nhiều nhà ba mươi Tết mới bắt đầu đi sắm sửa, thậm chí ngồi nhà đặt hàng qua điện thoại, qua mạng internet, chốc lát đã có người mang đến tận cửa, nào cặp bánh chưng, gà giò, dưa hành; các loại mứt, hạt, hoa quả bán khắp nơi... Thế là xong cái Tết!
Tết rộn ràng hơn, nhanh gọn hơn, song người từng trải qua những cái Tết cách đây hai chục năm trở về trước tiếc nuối không khí Tết Cổ truyền. Tết nay giàu vật chất hơn nhưng phong vị Tết đã nhạt dần, bởi thiếu những tất bật, niềm vui, mùi vị không bao giờ còn tìm thấy nữa.
“Ngày nay, nhiều gia đình, các bạn trẻ không còn để tâm, thậm chí Tết đi chơi, không ở nhà ăn Tết, sắm sửa gì. Không có không khí Tết, mỗi ngày lại suy giảm một ít niềm vui đón Tết, những người lớn tuổi như chúng tôi cảm thấy mất mát khá nhiều. Tôi vẫn ao ước một lúc nào đó lớp trẻ sẽ quan tâm hưởng thụ cho đúng nghĩa không khí Tết, đó cũng là cách hưởng thụ rất hay” - nhà văn Đỗ Phấn chia sẻ.
Giá trị căn cốt
Từng có lúc, Tết trở nên quá cầu kỳ, kỹ lưỡng, và xen lẫn cả mệt mỏi, áp lực, thậm chí có ý kiến kêu gọi bỏ Tết truyền thống. Gần đây, một số người có xu hướng quay về với sự tối giản: Tết không bày biện quá nhiều, tập trung vào các giá trị tinh thần chứ không phải là vật chất, để người khác trông vào đo đếm, đánh giá ở đâu Tết to, Tết nhỏ. Nhà văn, nhà báo Lữ Mai cho rằng, tinh thần của Tết Việt đã là tối giản: Các cụ ngày xưa không bày biện nhiều, dù sự chuẩn bị cho Tết rất cẩn trọng, nâng niu, nhưng rõ ràng không nhiêu khê, sự nhiêu khê là do đời sống, biến tấu của con người trong xã hội hiện đại. Trong khi những cái đó không thuộc giá trị căn cốt của Tết.
Giá trị căn cốt của Tết chính là sự đoàn viên, sum họp, sự giao hòa giữa đất trời và con người, giữa con người với con người. Nhờ có Tết mà người ta trò chuyện, đối thoại, chia sẻ với nhau nhiều hơn, nói về những gì đã qua, nghĩ về những điều chưa tới… “Tôi được đón Tết thuở ấu thơ ở làng quê nghèo, cho đến khi ở trọ phố phường là Hà Nội, rồi cái Tết ở quê chồng, cũng có những cái Tết di chuyển đến vùng miền khác. Sự ắp đầy, phong phú, khác biệt, nhưng Tết Việt lại mang tinh thần xuyên suốt là sự đoàn viên, sum họp” - nhà văn, nhà báo Lữ Mai nói.
Sự thay đổi trong cách đón Tết, ăn Tết, chơi Tết cho phù hợp với giá trị sống hiện nay là điều không thể khác. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vỹ: “Trong tính bảo lưu đậm đà của nó, Tết cũng không từ chối những tiếp biến, phát triển. Văn hóa mãi mãi là vậy. Uyển chuyển, thực tiễn và phong phú. Tết từng thời, từng hoàn cảnh có những biến đổi khác đi. Trong chiến tranh, thiên tai, hoạn nạn... chúng ta có những cái Tết khác. Trong thời bình làm ăn buôn bán Tết có những biểu hiện khác hơn. Tết phố thị khác Tết nông thôn. Tết du lịch khác Tết hồi hương. Tết không cố chấp những ứng xử cứng nhắc, song tâm thức hướng về nguồn cội, kỳ vọng tương lai thì Tết lưu giữ mãi mãi... Vấn đề cuối cùng là, không phải bỏ đi một di sản văn hóa truyền đời mà chúng ta cần nhận thức, bảo lưu giá trị, phát triển và thực hành, quảng bá nó như thế nào”.
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!