Những cú lừa của Uông Triều trong ‘Hà Nội những mùa cổ điển’

14:56 10/12/2024

YẾN THANH

Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

Tiểu thuyết khác thơ, nó cũng cởi mở hơn hẳn truyện ngắn hay kịch, khi phá bỏ gần như toàn bộ quy phạm về thể loại. Tiểu thuyết dung nạp mọi chất liệu của đời sống, thậm chí chấp nhận lai ghép với mọi thể loại văn học khác. Quan trọng hơn, tiểu thuyết được phép hư cấu không giới hạn. Chính hư cấu nói rõ với chúng ta về tư tưởng và tâm hồn một ai đó, chứ không phải hiện thực xung quanh họ. Bởi vì, tôi cho rằng, con người là một sinh vật tưởng tượng, năng lực lớn nhất của con người là tư duy trừu tượng. Thế giới con người thực sự hiện hữu đôi khi là thế giới tâm linh, thế giới huyền ảo, hoặc thế giới trong ký ức (đã đánh mất). Chính thực tại tâm hồn mới là nơi chúng ta cần những người nghệ sĩ - những vị chúa tể trị vì cõi mơ tưởng. Theo nghĩa đó, tôi đánh giá Hà Nội những mùa cổ điển là một tiểu thuyết thành công nhất của nhà văn Uông Triều (tên thật là Nguyễn Xuân Ban, sinh 1977) cho tới thời điểm hiện tại, đôi chỗ vượt lên Tưởng tượng và dấu vết - tiểu thuyết đầu tay mà tôi từng đánh giá rất cao của anh; dĩ nhiên vượt xa Người mê, Cô độc hay Sương mù tháng Giêng - những tiểu thuyết có nỗ lực khám phá, làm mới song tôi vẫn đánh giá là đi lùi so với Tưởng tượng và dấu vết.

Hà Nội những mùa cổ điển thú vị và thành công nhất theo tôi bởi vì hai nhẽ. Thứ nhất, trong tiểu thuyết này, Uông Triều được là chính mình, lấy bản thân mình ra để viết, anh phơi bày hết mọi gan ruột, ẩn ức thầm kín, dục vọng, những chấn thương bề sâu lẫn những sai lầm trong cuộc đời anh. Anh tự “làm thịt” chính mình, bày biện gọn ghẽ lên mâm cho chúng ta mà không màu mè, dùng gia vị để che phủ. Tôi vẫn nghĩ trong sáng tạo văn chương, nếu như nhà văn không có khả năng viết về chính mình, thì anh ta còn có thể viết về cái gì được nữa. Tha nhân làm sao chúng ta hiểu được, lãnh tụ càng xa cách, hiện thực thì bề bộn, tất cả đều là khách thể bên ngoài chúng ta. Dĩ nhiên, muốn hiểu được, miêu tả được, cắt nghĩa được khách thể, chúng ta cần hiểu chủ thể chính mình. Hà Nội những mùa cổ điển là một bản tự thuật tâm hồn giản dị, đơn nghĩa như thế. Ở đó, nhân vật trung tâm Uông là một ẩn dụ cho chính Uông Triều, anh lấy tên như một sự ám chỉ trực diện, không cần một danh từ riêng nào khác. Mọi địa danh, địa điểm trong tác phẩm đều gần như có thật trong đời sống của anh. Nhất là địa chỉ Tạp chí Văn nghệ Quân đội ở số 4 Lý Nam Đế rất quen thuộc với đông đảo bạn văn chương. 

Thứ hai, có thể nói, Hà Nội những mùa cổ điển không đơn thuần là một bản tự truyện - nó chính xác là một tiểu thuyết hư cấu đúng nghĩa. Ở đó, Uông Triều vượt thoát thực tại, siêu vượt thời gian và không gian, để tự do hư cấu và siêu hư cấu. Có thể nói, đây chính là cuốn tiểu thuyết hư cấu khoáng đạt và bay bổng nhất của Uông Triều. Anh hoàn toàn không nô lệ vào hiện thực lẫn lịch sử, cho dù anh ra sức miêu tả nó, viết về nó, suy tư về nó. Chính siêu hư cấu trong Hà Nội những mùa cổ điển đã tạo nên siêu lịch sử, giả lịch sử trong tiểu thuyết của anh. Trong làng văn chương Việt Nam hậu hiện đại, có lẽ Hà Nội những mùa cổ điển là tác phẩm hiếm hoi dám viết và có khả năng viết về một siêu lịch sử như vậy: Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ thản nhiên đi dạo phố Hà Nội thời hiện đại, ăn uống các quán xá đương thời, ngôn ngữ ăn nói như người hiện đại, nhưng lại bay lên trời đánh nhau với vô vàn phép thuật… trên cầu Long Biên. Những hư cấu như thế này, khoảng chừng 20 năm trước tôi e rằng nhà văn sẽ bị đòn hội đồng nặng nề, thậm chí phải bị treo bút vì “giải thiêng thần tượng” hay “bôi nhọ lịch sử” từ phía những nhà phê bình đao búa. Người ta sẽ đem anh đi giám định tâm thần vì dám sáng tạo vô lối như vậy. Song ở thời điểm này, với sự nới rộng của không gian dân chủ trong văn chương, đặc biệt là sự tiến bộ của tư duy hệ hình nghiên cứu văn học, những sáng tạo trong Hà Nội những mùa cổ điển trở nên thú vị, hài hước, nhưng cũng rất đáng suy ngẫm. Như vậy, tôi đánh giá cao tác phẩm này bởi nó hài hòa được yếu tố tự thuật, hiện thực, bên cạnh yếu tố tự do hư cấu và siêu hư cấu.

Mặc dù vậy, cũng cần nói rõ quan điểm cá nhân của tôi rằng, đây là một tác phẩm có lẽ còn nhiều hạt sạn. Nó thiếu sự chuẩn chỉnh, kỳ công và trọn vẹn như Tưởng tượng và dấu vết hay Cô độc. Tác giả tung ra nhiều chiêu thức quá, “võ học” văn chương của nhà văn đa dạng song khá là rối rắm, đôi chỗ bị “tẩu hỏa nhập ma” mà chưa làm chủ được ngòi bút. Bên cạnh một cái kết khá hụt hẫng, không rõ tư tưởng - cho dù chúng ta chấp nhận nó là một cái kết mở để người đọc đồng sáng tạo đi chăng nữa. Tựa đề Hà Nội những mùa cổ điển theo tôi đọc lên không “sướng”, không ấn tượng, lại không phản ánh đúng lý tưởng thẩm mỹ mà nhà văn miêu tả xuyên suốt tác phẩm. Mới đọc qua, bạn đọc yêu mến Uông Triều tưởng rằng anh đang viết cuốn biên khảo thứ ba về Hà Nội, sau Hà Nội - Dấu xưa, phố cũHà Nội, quán xá phố phường. Nếu chỉ xét riêng về cách đặt tên, Tưởng tượng và dấu vết hay Cô độc thành công hơn hẳn. Từ “cổ điển” trong tựa đề không nói lên được một Hà Nội xuất hiện trong tiểu thuyết của anh. Hà Nội trong Hà Nội những mùa cổ điển là một Hà Nội tân kỳ, hiện đại, đầy rẫy những dấu ấn lịch sử. Điều quan trọng nhất là, tiểu thuyết của Uông Triều không viết về Hà Nội, mà viết về chính anh lẫn những suy tư, cảm nhận lịch sử của anh. Dù có những hạn chế như vậy, theo thiển ý của cá nhân tôi, song Hà Nội những mùa cổ điển vẫn là tiểu thuyết đáng đọc bậc nhất trong 20 năm đầu thế kỷ XXI, bởi những cách tân táo bạo, biểu hiện cho một tư duy văn chương mới mẻ. Tôi sẽ thử phân tích hai cách tân của Uông Triều trong tiểu luận ngắn này.

1. Bản tường trình và tự thú tâm hồn

Thông thường, chúng ta sẽ có xu hướng che đậy những bí mật đời tư trước sự soi mói của đám đông xã hội. Người nổi tiếng hay nhà văn là những người của công chúng, lại càng có xu hướng “tốt khoe xấu che”, thậm chí lắm kẻ cực đoan còn “phông bạt” làm màu, bịa nên những huyền thoại về bản thân, hoặc che đi những scandal trong đời sống. Uông Triều trong Hà Nội những mùa cổ điển vượt lên những thị phi thông thường, anh viết để sám hối và tự thú. Tôi đánh giá cao tính dấn thân của anh trong tiểu thuyết này. Hiện thực của Uông trong Hà Nội những mùa cổ điển với biết bao bi kịch, sai lầm đời tư, chính là hiện thực của nhà văn Uông Triều. Tôi nói vậy bởi vì may mắn là tôi quen biết và khá thân thiết với anh ở ngoài đời, hiểu về những biến cố đời tư của anh, cho dù trong phê bình tôi rất ghét lối viết “tri âm”, “thù tạc”. Hà Nội những mùa cổ điển là một tác phẩm đậm tính hiện thực cá nhân lẫn hiện thực lịch sử. Về mặt đời tư nhà văn, nhân vật chính tên Uông có vẻ rất giống với tên của tác giả (Uông Triều), đây là một thủ pháp đặt tên “cố ý” của nhà văn. Thiếu gì tên mà lại sử dụng tên Uông, thủ pháp này thật ra đã có từ thời Cô độc, với biên tập viên tên Ban hay nhân vật tên B. 

Uông có nhiều chi tiết đời tư giống với tác giả Uông Triều. Đầu tiên là ly hôn, “Uông không bình luận, một cái dằm nhói lên trong anh về cuộc hôn nhân tan vỡ của mình, đã năm năm rồi nhưng mỗi lần nhớ đến nó, Uông vẫn thấy man mác” [Hà Nội những mùa cổ điển, Nxb. Hội Nhà văn và Công ty Tao Đàn, Hà Nội, 2024, trang 115 - những trích dẫn trong tiểu luận này nếu không có chú thích gì thêm thì đều từ nguồn này]. Trong đời thực, tác giả Uông Triều không chỉ một, mà có đến hai lần tan vỡ hôn nhân. Những cuộc tan vỡ này rõ ràng tạo nên những chấn thương tinh thần ghê gớm, là những vết sẹo không phai mờ trong tâm trí của anh, cho dù lỗi lầm từ phía nào đi chăng nữa. Song cũng cần phải thấy rằng, nếu không có những nỗi đau ấy, chắc gì tác giả đã viết nên được các tác phẩm để đời như Tưởng tượng và dấu vết, Cô độc hay đặc biệt là Hà Nội những mùa cổ điển. Với lối viết “tự ăn mình”, Uông Triều đã nhìn thẳng và thật vào những bi kịch ly hôn của đời anh, và có thể nói, đó cũng chính là những chấn thương tinh thần phổ biến của con người trong thời hậu hiện đại. Không biện hộ, không bao che, không bào chữa, nhà văn thú thực với độc giả về cuộc ly hôn của cuộc đời mình. Tôi tôn trọng và quý mến thái độ đàn ông này của nhà văn, cho dù anh có mắc sai lầm đàn ông nào trong quá khứ đi chăng nữa, ít ra, anh không phải là một kẻ đạo đức giả. “Vì dịch bệnh, trẻ con Hà Nội phải ở nhà cả năm trời học online. Con gái Uông đang ở với mẹ báo tin mừng đã được đến trường. Hà Nội đã hồi lại như những ngày bình thường, tâm lý sợ hãi đã thay đổi khi người ta buộc phải sống chung với dịch bệnh” [tr.143]. 

Sự ly tán của gia đình hạt nhân khiến con cái phải sống xa cha, hoặc xa mẹ. Đó là vết thương chung của gia đình hậu hiện đại, Uông Triều đã nhìn thẳng vào vết thương này. Con gái ở xa Uông, song hiểu anh và tha thứ, thông cảm cho cha. Đó là một cảm quan rất bao dung, rất hậu hiện đại. Đoạn trên còn phản ánh một chấn thương tinh thần đương đại lớn nữa của thế giới và của Việt Nam - đại dịch hô hấp cấp do virus Covid 19 gây ra. Cơn đại dịch này gần như là một cuộc thảm sát của virus đối với nhân loại, tạo ra dư chấn tinh thần nghiêm trọng, với gần 15 triệu người đã chết trên thế giới. Việt Nam với những đợt cách ly xã hội, những trại tập trung bệnh nhân, những lò thiêu quá tải, những đợt ngoáy mũi, cũng đã tạo nên các dư chấn hậu Covid 19, bên cạnh sự ra đi vĩnh viễn của hàng vạn bệnh nhân. 

Hà Nội những mùa cổ điển còn dày đặc tính thời sự, tiêu biểu như cuộc chiến tranh đẫm máu thời hậu hiện đại giữa Nga và Ukraina. Cuộc chiến mà tôi với Uông Triều từng nhiều lần cho rằng là phi nghĩa, không cần thiết, là nồi da xáo thịt đau đớn. Tiểu sử dạy học ở Quảng Ninh của nhà văn Uông Triều, hay mối quan hệ thân thiết của tác giả với những nhà văn thời danh của Việt Nam như Bảo Sinh hay Nguyễn Huy Thiệp đều được nhắc đến trong Hà Nội những mùa cổ điển. Một loạt những nhà văn hiện đại, đương thời là bạn bè với tác giả cũng đều được trực tiếp hay gián tiếp nhắc đến trong Hà Nội những mùa cổ điển, ví dụ như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Thị Quỳnh Nga… Có thể nói, Hà Nội những mùa cổ điển là tiểu thuyết mang tính đời tư rõ nhất của Uông Triều. Tính hiện thực của tác phẩm còn được kiến tạo dựa trên hàng loạt những địa danh lịch sử, địa danh văn hóa, địa điểm ẩm thực nổi tiếng của Hà Nội - một lãnh vực mà Uông Triều rất sành sỏi, là chuyên gia nghiên cứu. Chưa kể một số thức uống thời thượng như cà phê muối mà hiện nay giới trẻ rất thích thú. Góc nhìn thú vị về Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam cũng tạo nên tiếng cười sảng khoái cho độc giả. Hàng loạt những sự kiện trong đời sống văn chương ngoài đời thật cũng được đưa vào tiểu thuyết, tạo nên một “món nộm” (từ dùng của Trần Thanh Cảnh) hỗn độn, song lạ miệng và ăn vào rất khoái thú. Hà Nội những mùa cổ điển có đủ hài và đủ bi, đủ nghiêm túc lẫn đủ bông đùa, giễu cợt để có thể làm nên một tiểu thuyết đáng kể trong làng văn chương đương đại.

2. Siêu hư cấu về mặt lịch sử

Hà Nội những mùa cổ điển xây dựng hai hệ thống nhân vật đan cài vào nhau, bao gồm hệ thống nhân vật hiện thực và hệ thống nhân vật lịch sử. Trong nhóm nhân vật hiện thực chúng ta có Quyên, Hiếu (các người bạn của Uông), Uông (nhân vật trung tâm), Vân, Hạnh (các người tình của Uông), Hoàng, Châu, Mậu, Tiến, Mai (các đồng nghiệp là biên tập viên của Uông), Hằng, Đinh Văn Nho, Phi… Nhóm nhân vật hiện thực này thường xuyên tương tác, tiếp xúc với nhóm nhân vật lịch sử (bao gồm cả quá khứ gần lẫn quá khứ xa) như Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ (Quang Trung), Nguyễn Hữu Chỉnh (cho dù chỉ là bút danh), Khái Hưng, công chúa Ngọc Hân. Ngoài ra, có hai nhân vật đứng giữa hai ranh giới là Thúy (hầu cận của Nguyễn Huệ) và Quân lùn (hầu cận của Nguyễn Ánh). Thúy và Quân không có thật trong lịch sử, họ là hai nhân vật hư cấu lịch sử được nhà văn “chêm” vào tác phẩm.

Tác phẩm là một cuộc phô diễn đặc biệt của bút pháp hiện thực huyền ảo, nó dày đặc những chi tiết phi lý, siêu nhiên. Tiêu biểu như cơn mưa châu chấu hay cơn mưa ruồi do Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh tạo nên nhằm tấn công đối thủ (một hình tượng gợi nhớ đến Haruki Murakami và Gabriel García Márquez). Cuộc giao chiến kỳ vỹ giữa hai nhân vật lịch sử trên cầu Long Biên cũng rất đáng chú ý: “Huệ thấp mình xuống như lấy đà rồi ông ta rời khỏi mặt đất, người đứng thẳng, hai tay dang rộng miệng hét như xung thiên. Tiếng hét chói tai từ khoảng cách mười cây số có lẽ người ta vẫn nghe thấy. Tiếng hét tụ thành một luồng cực mạnh đỏ rực lao vun vút như một thanh đao. Thanh đao bay trên mặt sông Hồng, nước sông cuộn lên….” [tr. 229]. Chưa kể những nhân vật huyền ảo như con sóc khổng lồ có quan hệ hình thái với biên tập viên Mậu. Con voi khổng lồ xuất hiện ở phố Nguyễn Biểu… Tất cả tạo nên một thế giới huyền ảo, công khai sự phi thực, tính hư cấu rõ nét của chúng.

Các nhân vật lịch sử trong tác phẩm được viết dưới một cảm quan giải thiêng rất hậu hiện đại. Ngoài việc đi ăn uống, trò chuyện với Uông hay các nhân vật thực tại, Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ còn có khá nhiều thói hư tật xấu đời thường như các mưu toan chính trị, các thủ đoạn ám hại, khủng bố lẫn nhau. Hà Nội những mùa cổ điển dày đặc những luận đề, suy ngẫm về lịch sử. Không đơn giản chỉ là một tiểu thuyết giả lịch sử, hay có yếu tố lịch sử, Hà Nội những mùa cổ điển có ý nghĩa như những tiểu luận nghiên cứu bàn về lịch sử. Ở đó, vai trò, vị thế của Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ liên tục được đem ra chất vấn, đánh giá lại: “Sao bây giờ không có một con đường nào đặt tên Gia Long và tượng đài của ông ấy? Còn đâu đâu cũng là Nguyễn Huệ, Quang Trung. Mày không thấy điều ấy à?” 

Nho bảo:

“Dần dần người ta sẽ có cái nhìn khách quan về lịch sử. Tôi công nhận rằng Gia Long đã có lúc bị nhìn nhận hơi phiến diện, một chiều” [tr.53].

Đoạn trích sau nói rõ hơn quan điểm về lịch sử và tiền nhân của Uông Triều, và tôi đồng ý hoàn toàn với nhận định và suy tư này: “Thực tế Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh suy nghĩ thế nào thì chỉ hai người đó biết. (…) Đừng ai cho rằng mình đã thông hiểu hoàn toàn lịch sử. Rồi Uông phát biểu, anh cho rằng bài báo của Đinh Văn Nho ký tên Hữu Chỉnh không sai lầm hoặc phiến diện, nó là tiếng nói trao đổi và bình thường trong các cuộc tranh luận khoa học. Lịch sử là khoa học nên phải lấy tiêu chí khoa học để xem xét…” [tr.219].

Đặt những nhân vật lịch sử trong không gian văn hóa đương đại, công nhiên viết về những hư cấu của mình, nhắc nhở công khai bạn đọc đây là hư cấu lịch sử, không phải tường thuật lịch sử - đó chính là dụng ý của Uông Triều trong Hà Nội những mùa cổ điển; đó chính là siêu hư cấu về lịch sử. Trong tác phẩm, nhiều chỗ kể rằng Uông đã viết về một tác phẩm có tên Hà Nội những mùa cổ điển - trùng với chính tên tác phẩm mà bạn đọc đang đọc, dẫn tới sự băn khoăn về bản thể tác phẩm đích thực, lẫn sự hư cấu. Nhiều nhân vật công nhiên phỏng vấn tác giả [tr. 282], tên nhân vật Uông cũng là một ám chỉ đến tác giả Uông Triều. Nhiều chỗ nhân vật mất kiểm soát, nhà văn bị bất lực trước thế giới sáng tạo của mình [tr. 368]. Nhân vật lịch sử [nhà văn Khái Hưng] lại đi cứu người kể chuyện/tác giả [nhân vật Uông]… tất cả đều với một dụng ý, đưa người đọc đi vào mê cung của hư cấu, với ý thức rõ ràng nhấn mạnh đây là một hư cấu đúng nghĩa, một trò chơi tiểu thuyết. Uông Triều thực sự muốn người đọc hiểu và ý thức đầy đủ rằng, mọi diễn ngôn về lịch sử, dẫu bông đùa, phi lý, hay “ra vẻ”, “dán mác” hiện thực hay trung thành với hiện thực lịch sử, thì bản chất đều mang tính chất diễn ngôn nghệ thuật. Ở đó, tính hư cấu sẽ quyết định thế giới của văn bản, và nhà văn liên tục bông đùa, đánh lừa bạn đọc với những trò chơi khăm của hắn ta. Lịch sử cuối cùng chỉ là sự suy tư về lịch sử.

Tóm lại, Hà Nội những mùa cổ điển xứng đáng là một bước tiến mới và lớn trong sự nghiệp tiểu thuyết của Uông Triều, sau những nốt trầm và bước lùi mà anh đã vấp phải. Tác phẩm này chứng tỏ cho khát vọng đổi mới không ngừng, sự học hỏi, tìm tòi từ các kiệt tác thế giới, những trào lưu văn chương thế giới đương đại. Chúng ta một lần nữa hi vọng vào văn chương hậu hiện đại Việt Nam, bởi những tác phẩm xứng đáng có ý nghĩa khai phóng tư duy văn chương đương đại như Hà Nội những mùa cổ điển.

Y.T
(TCSH429/11-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.