Những cú lừa của Uông Triều trong ‘Hà Nội những mùa cổ điển’

14:56 10/12/2024

YẾN THANH

Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

Tiểu thuyết khác thơ, nó cũng cởi mở hơn hẳn truyện ngắn hay kịch, khi phá bỏ gần như toàn bộ quy phạm về thể loại. Tiểu thuyết dung nạp mọi chất liệu của đời sống, thậm chí chấp nhận lai ghép với mọi thể loại văn học khác. Quan trọng hơn, tiểu thuyết được phép hư cấu không giới hạn. Chính hư cấu nói rõ với chúng ta về tư tưởng và tâm hồn một ai đó, chứ không phải hiện thực xung quanh họ. Bởi vì, tôi cho rằng, con người là một sinh vật tưởng tượng, năng lực lớn nhất của con người là tư duy trừu tượng. Thế giới con người thực sự hiện hữu đôi khi là thế giới tâm linh, thế giới huyền ảo, hoặc thế giới trong ký ức (đã đánh mất). Chính thực tại tâm hồn mới là nơi chúng ta cần những người nghệ sĩ - những vị chúa tể trị vì cõi mơ tưởng. Theo nghĩa đó, tôi đánh giá Hà Nội những mùa cổ điển là một tiểu thuyết thành công nhất của nhà văn Uông Triều (tên thật là Nguyễn Xuân Ban, sinh 1977) cho tới thời điểm hiện tại, đôi chỗ vượt lên Tưởng tượng và dấu vết - tiểu thuyết đầu tay mà tôi từng đánh giá rất cao của anh; dĩ nhiên vượt xa Người mê, Cô độc hay Sương mù tháng Giêng - những tiểu thuyết có nỗ lực khám phá, làm mới song tôi vẫn đánh giá là đi lùi so với Tưởng tượng và dấu vết.

Hà Nội những mùa cổ điển thú vị và thành công nhất theo tôi bởi vì hai nhẽ. Thứ nhất, trong tiểu thuyết này, Uông Triều được là chính mình, lấy bản thân mình ra để viết, anh phơi bày hết mọi gan ruột, ẩn ức thầm kín, dục vọng, những chấn thương bề sâu lẫn những sai lầm trong cuộc đời anh. Anh tự “làm thịt” chính mình, bày biện gọn ghẽ lên mâm cho chúng ta mà không màu mè, dùng gia vị để che phủ. Tôi vẫn nghĩ trong sáng tạo văn chương, nếu như nhà văn không có khả năng viết về chính mình, thì anh ta còn có thể viết về cái gì được nữa. Tha nhân làm sao chúng ta hiểu được, lãnh tụ càng xa cách, hiện thực thì bề bộn, tất cả đều là khách thể bên ngoài chúng ta. Dĩ nhiên, muốn hiểu được, miêu tả được, cắt nghĩa được khách thể, chúng ta cần hiểu chủ thể chính mình. Hà Nội những mùa cổ điển là một bản tự thuật tâm hồn giản dị, đơn nghĩa như thế. Ở đó, nhân vật trung tâm Uông là một ẩn dụ cho chính Uông Triều, anh lấy tên như một sự ám chỉ trực diện, không cần một danh từ riêng nào khác. Mọi địa danh, địa điểm trong tác phẩm đều gần như có thật trong đời sống của anh. Nhất là địa chỉ Tạp chí Văn nghệ Quân đội ở số 4 Lý Nam Đế rất quen thuộc với đông đảo bạn văn chương. 

Thứ hai, có thể nói, Hà Nội những mùa cổ điển không đơn thuần là một bản tự truyện - nó chính xác là một tiểu thuyết hư cấu đúng nghĩa. Ở đó, Uông Triều vượt thoát thực tại, siêu vượt thời gian và không gian, để tự do hư cấu và siêu hư cấu. Có thể nói, đây chính là cuốn tiểu thuyết hư cấu khoáng đạt và bay bổng nhất của Uông Triều. Anh hoàn toàn không nô lệ vào hiện thực lẫn lịch sử, cho dù anh ra sức miêu tả nó, viết về nó, suy tư về nó. Chính siêu hư cấu trong Hà Nội những mùa cổ điển đã tạo nên siêu lịch sử, giả lịch sử trong tiểu thuyết của anh. Trong làng văn chương Việt Nam hậu hiện đại, có lẽ Hà Nội những mùa cổ điển là tác phẩm hiếm hoi dám viết và có khả năng viết về một siêu lịch sử như vậy: Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ thản nhiên đi dạo phố Hà Nội thời hiện đại, ăn uống các quán xá đương thời, ngôn ngữ ăn nói như người hiện đại, nhưng lại bay lên trời đánh nhau với vô vàn phép thuật… trên cầu Long Biên. Những hư cấu như thế này, khoảng chừng 20 năm trước tôi e rằng nhà văn sẽ bị đòn hội đồng nặng nề, thậm chí phải bị treo bút vì “giải thiêng thần tượng” hay “bôi nhọ lịch sử” từ phía những nhà phê bình đao búa. Người ta sẽ đem anh đi giám định tâm thần vì dám sáng tạo vô lối như vậy. Song ở thời điểm này, với sự nới rộng của không gian dân chủ trong văn chương, đặc biệt là sự tiến bộ của tư duy hệ hình nghiên cứu văn học, những sáng tạo trong Hà Nội những mùa cổ điển trở nên thú vị, hài hước, nhưng cũng rất đáng suy ngẫm. Như vậy, tôi đánh giá cao tác phẩm này bởi nó hài hòa được yếu tố tự thuật, hiện thực, bên cạnh yếu tố tự do hư cấu và siêu hư cấu.

Mặc dù vậy, cũng cần nói rõ quan điểm cá nhân của tôi rằng, đây là một tác phẩm có lẽ còn nhiều hạt sạn. Nó thiếu sự chuẩn chỉnh, kỳ công và trọn vẹn như Tưởng tượng và dấu vết hay Cô độc. Tác giả tung ra nhiều chiêu thức quá, “võ học” văn chương của nhà văn đa dạng song khá là rối rắm, đôi chỗ bị “tẩu hỏa nhập ma” mà chưa làm chủ được ngòi bút. Bên cạnh một cái kết khá hụt hẫng, không rõ tư tưởng - cho dù chúng ta chấp nhận nó là một cái kết mở để người đọc đồng sáng tạo đi chăng nữa. Tựa đề Hà Nội những mùa cổ điển theo tôi đọc lên không “sướng”, không ấn tượng, lại không phản ánh đúng lý tưởng thẩm mỹ mà nhà văn miêu tả xuyên suốt tác phẩm. Mới đọc qua, bạn đọc yêu mến Uông Triều tưởng rằng anh đang viết cuốn biên khảo thứ ba về Hà Nội, sau Hà Nội - Dấu xưa, phố cũHà Nội, quán xá phố phường. Nếu chỉ xét riêng về cách đặt tên, Tưởng tượng và dấu vết hay Cô độc thành công hơn hẳn. Từ “cổ điển” trong tựa đề không nói lên được một Hà Nội xuất hiện trong tiểu thuyết của anh. Hà Nội trong Hà Nội những mùa cổ điển là một Hà Nội tân kỳ, hiện đại, đầy rẫy những dấu ấn lịch sử. Điều quan trọng nhất là, tiểu thuyết của Uông Triều không viết về Hà Nội, mà viết về chính anh lẫn những suy tư, cảm nhận lịch sử của anh. Dù có những hạn chế như vậy, theo thiển ý của cá nhân tôi, song Hà Nội những mùa cổ điển vẫn là tiểu thuyết đáng đọc bậc nhất trong 20 năm đầu thế kỷ XXI, bởi những cách tân táo bạo, biểu hiện cho một tư duy văn chương mới mẻ. Tôi sẽ thử phân tích hai cách tân của Uông Triều trong tiểu luận ngắn này.

1. Bản tường trình và tự thú tâm hồn

Thông thường, chúng ta sẽ có xu hướng che đậy những bí mật đời tư trước sự soi mói của đám đông xã hội. Người nổi tiếng hay nhà văn là những người của công chúng, lại càng có xu hướng “tốt khoe xấu che”, thậm chí lắm kẻ cực đoan còn “phông bạt” làm màu, bịa nên những huyền thoại về bản thân, hoặc che đi những scandal trong đời sống. Uông Triều trong Hà Nội những mùa cổ điển vượt lên những thị phi thông thường, anh viết để sám hối và tự thú. Tôi đánh giá cao tính dấn thân của anh trong tiểu thuyết này. Hiện thực của Uông trong Hà Nội những mùa cổ điển với biết bao bi kịch, sai lầm đời tư, chính là hiện thực của nhà văn Uông Triều. Tôi nói vậy bởi vì may mắn là tôi quen biết và khá thân thiết với anh ở ngoài đời, hiểu về những biến cố đời tư của anh, cho dù trong phê bình tôi rất ghét lối viết “tri âm”, “thù tạc”. Hà Nội những mùa cổ điển là một tác phẩm đậm tính hiện thực cá nhân lẫn hiện thực lịch sử. Về mặt đời tư nhà văn, nhân vật chính tên Uông có vẻ rất giống với tên của tác giả (Uông Triều), đây là một thủ pháp đặt tên “cố ý” của nhà văn. Thiếu gì tên mà lại sử dụng tên Uông, thủ pháp này thật ra đã có từ thời Cô độc, với biên tập viên tên Ban hay nhân vật tên B. 

Uông có nhiều chi tiết đời tư giống với tác giả Uông Triều. Đầu tiên là ly hôn, “Uông không bình luận, một cái dằm nhói lên trong anh về cuộc hôn nhân tan vỡ của mình, đã năm năm rồi nhưng mỗi lần nhớ đến nó, Uông vẫn thấy man mác” [Hà Nội những mùa cổ điển, Nxb. Hội Nhà văn và Công ty Tao Đàn, Hà Nội, 2024, trang 115 - những trích dẫn trong tiểu luận này nếu không có chú thích gì thêm thì đều từ nguồn này]. Trong đời thực, tác giả Uông Triều không chỉ một, mà có đến hai lần tan vỡ hôn nhân. Những cuộc tan vỡ này rõ ràng tạo nên những chấn thương tinh thần ghê gớm, là những vết sẹo không phai mờ trong tâm trí của anh, cho dù lỗi lầm từ phía nào đi chăng nữa. Song cũng cần phải thấy rằng, nếu không có những nỗi đau ấy, chắc gì tác giả đã viết nên được các tác phẩm để đời như Tưởng tượng và dấu vết, Cô độc hay đặc biệt là Hà Nội những mùa cổ điển. Với lối viết “tự ăn mình”, Uông Triều đã nhìn thẳng và thật vào những bi kịch ly hôn của đời anh, và có thể nói, đó cũng chính là những chấn thương tinh thần phổ biến của con người trong thời hậu hiện đại. Không biện hộ, không bao che, không bào chữa, nhà văn thú thực với độc giả về cuộc ly hôn của cuộc đời mình. Tôi tôn trọng và quý mến thái độ đàn ông này của nhà văn, cho dù anh có mắc sai lầm đàn ông nào trong quá khứ đi chăng nữa, ít ra, anh không phải là một kẻ đạo đức giả. “Vì dịch bệnh, trẻ con Hà Nội phải ở nhà cả năm trời học online. Con gái Uông đang ở với mẹ báo tin mừng đã được đến trường. Hà Nội đã hồi lại như những ngày bình thường, tâm lý sợ hãi đã thay đổi khi người ta buộc phải sống chung với dịch bệnh” [tr.143]. 

Sự ly tán của gia đình hạt nhân khiến con cái phải sống xa cha, hoặc xa mẹ. Đó là vết thương chung của gia đình hậu hiện đại, Uông Triều đã nhìn thẳng vào vết thương này. Con gái ở xa Uông, song hiểu anh và tha thứ, thông cảm cho cha. Đó là một cảm quan rất bao dung, rất hậu hiện đại. Đoạn trên còn phản ánh một chấn thương tinh thần đương đại lớn nữa của thế giới và của Việt Nam - đại dịch hô hấp cấp do virus Covid 19 gây ra. Cơn đại dịch này gần như là một cuộc thảm sát của virus đối với nhân loại, tạo ra dư chấn tinh thần nghiêm trọng, với gần 15 triệu người đã chết trên thế giới. Việt Nam với những đợt cách ly xã hội, những trại tập trung bệnh nhân, những lò thiêu quá tải, những đợt ngoáy mũi, cũng đã tạo nên các dư chấn hậu Covid 19, bên cạnh sự ra đi vĩnh viễn của hàng vạn bệnh nhân. 

Hà Nội những mùa cổ điển còn dày đặc tính thời sự, tiêu biểu như cuộc chiến tranh đẫm máu thời hậu hiện đại giữa Nga và Ukraina. Cuộc chiến mà tôi với Uông Triều từng nhiều lần cho rằng là phi nghĩa, không cần thiết, là nồi da xáo thịt đau đớn. Tiểu sử dạy học ở Quảng Ninh của nhà văn Uông Triều, hay mối quan hệ thân thiết của tác giả với những nhà văn thời danh của Việt Nam như Bảo Sinh hay Nguyễn Huy Thiệp đều được nhắc đến trong Hà Nội những mùa cổ điển. Một loạt những nhà văn hiện đại, đương thời là bạn bè với tác giả cũng đều được trực tiếp hay gián tiếp nhắc đến trong Hà Nội những mùa cổ điển, ví dụ như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Thị Quỳnh Nga… Có thể nói, Hà Nội những mùa cổ điển là tiểu thuyết mang tính đời tư rõ nhất của Uông Triều. Tính hiện thực của tác phẩm còn được kiến tạo dựa trên hàng loạt những địa danh lịch sử, địa danh văn hóa, địa điểm ẩm thực nổi tiếng của Hà Nội - một lãnh vực mà Uông Triều rất sành sỏi, là chuyên gia nghiên cứu. Chưa kể một số thức uống thời thượng như cà phê muối mà hiện nay giới trẻ rất thích thú. Góc nhìn thú vị về Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam cũng tạo nên tiếng cười sảng khoái cho độc giả. Hàng loạt những sự kiện trong đời sống văn chương ngoài đời thật cũng được đưa vào tiểu thuyết, tạo nên một “món nộm” (từ dùng của Trần Thanh Cảnh) hỗn độn, song lạ miệng và ăn vào rất khoái thú. Hà Nội những mùa cổ điển có đủ hài và đủ bi, đủ nghiêm túc lẫn đủ bông đùa, giễu cợt để có thể làm nên một tiểu thuyết đáng kể trong làng văn chương đương đại.

2. Siêu hư cấu về mặt lịch sử

Hà Nội những mùa cổ điển xây dựng hai hệ thống nhân vật đan cài vào nhau, bao gồm hệ thống nhân vật hiện thực và hệ thống nhân vật lịch sử. Trong nhóm nhân vật hiện thực chúng ta có Quyên, Hiếu (các người bạn của Uông), Uông (nhân vật trung tâm), Vân, Hạnh (các người tình của Uông), Hoàng, Châu, Mậu, Tiến, Mai (các đồng nghiệp là biên tập viên của Uông), Hằng, Đinh Văn Nho, Phi… Nhóm nhân vật hiện thực này thường xuyên tương tác, tiếp xúc với nhóm nhân vật lịch sử (bao gồm cả quá khứ gần lẫn quá khứ xa) như Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ (Quang Trung), Nguyễn Hữu Chỉnh (cho dù chỉ là bút danh), Khái Hưng, công chúa Ngọc Hân. Ngoài ra, có hai nhân vật đứng giữa hai ranh giới là Thúy (hầu cận của Nguyễn Huệ) và Quân lùn (hầu cận của Nguyễn Ánh). Thúy và Quân không có thật trong lịch sử, họ là hai nhân vật hư cấu lịch sử được nhà văn “chêm” vào tác phẩm.

Tác phẩm là một cuộc phô diễn đặc biệt của bút pháp hiện thực huyền ảo, nó dày đặc những chi tiết phi lý, siêu nhiên. Tiêu biểu như cơn mưa châu chấu hay cơn mưa ruồi do Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh tạo nên nhằm tấn công đối thủ (một hình tượng gợi nhớ đến Haruki Murakami và Gabriel García Márquez). Cuộc giao chiến kỳ vỹ giữa hai nhân vật lịch sử trên cầu Long Biên cũng rất đáng chú ý: “Huệ thấp mình xuống như lấy đà rồi ông ta rời khỏi mặt đất, người đứng thẳng, hai tay dang rộng miệng hét như xung thiên. Tiếng hét chói tai từ khoảng cách mười cây số có lẽ người ta vẫn nghe thấy. Tiếng hét tụ thành một luồng cực mạnh đỏ rực lao vun vút như một thanh đao. Thanh đao bay trên mặt sông Hồng, nước sông cuộn lên….” [tr. 229]. Chưa kể những nhân vật huyền ảo như con sóc khổng lồ có quan hệ hình thái với biên tập viên Mậu. Con voi khổng lồ xuất hiện ở phố Nguyễn Biểu… Tất cả tạo nên một thế giới huyền ảo, công khai sự phi thực, tính hư cấu rõ nét của chúng.

Các nhân vật lịch sử trong tác phẩm được viết dưới một cảm quan giải thiêng rất hậu hiện đại. Ngoài việc đi ăn uống, trò chuyện với Uông hay các nhân vật thực tại, Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ còn có khá nhiều thói hư tật xấu đời thường như các mưu toan chính trị, các thủ đoạn ám hại, khủng bố lẫn nhau. Hà Nội những mùa cổ điển dày đặc những luận đề, suy ngẫm về lịch sử. Không đơn giản chỉ là một tiểu thuyết giả lịch sử, hay có yếu tố lịch sử, Hà Nội những mùa cổ điển có ý nghĩa như những tiểu luận nghiên cứu bàn về lịch sử. Ở đó, vai trò, vị thế của Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ liên tục được đem ra chất vấn, đánh giá lại: “Sao bây giờ không có một con đường nào đặt tên Gia Long và tượng đài của ông ấy? Còn đâu đâu cũng là Nguyễn Huệ, Quang Trung. Mày không thấy điều ấy à?” 

Nho bảo:

“Dần dần người ta sẽ có cái nhìn khách quan về lịch sử. Tôi công nhận rằng Gia Long đã có lúc bị nhìn nhận hơi phiến diện, một chiều” [tr.53].

Đoạn trích sau nói rõ hơn quan điểm về lịch sử và tiền nhân của Uông Triều, và tôi đồng ý hoàn toàn với nhận định và suy tư này: “Thực tế Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh suy nghĩ thế nào thì chỉ hai người đó biết. (…) Đừng ai cho rằng mình đã thông hiểu hoàn toàn lịch sử. Rồi Uông phát biểu, anh cho rằng bài báo của Đinh Văn Nho ký tên Hữu Chỉnh không sai lầm hoặc phiến diện, nó là tiếng nói trao đổi và bình thường trong các cuộc tranh luận khoa học. Lịch sử là khoa học nên phải lấy tiêu chí khoa học để xem xét…” [tr.219].

Đặt những nhân vật lịch sử trong không gian văn hóa đương đại, công nhiên viết về những hư cấu của mình, nhắc nhở công khai bạn đọc đây là hư cấu lịch sử, không phải tường thuật lịch sử - đó chính là dụng ý của Uông Triều trong Hà Nội những mùa cổ điển; đó chính là siêu hư cấu về lịch sử. Trong tác phẩm, nhiều chỗ kể rằng Uông đã viết về một tác phẩm có tên Hà Nội những mùa cổ điển - trùng với chính tên tác phẩm mà bạn đọc đang đọc, dẫn tới sự băn khoăn về bản thể tác phẩm đích thực, lẫn sự hư cấu. Nhiều nhân vật công nhiên phỏng vấn tác giả [tr. 282], tên nhân vật Uông cũng là một ám chỉ đến tác giả Uông Triều. Nhiều chỗ nhân vật mất kiểm soát, nhà văn bị bất lực trước thế giới sáng tạo của mình [tr. 368]. Nhân vật lịch sử [nhà văn Khái Hưng] lại đi cứu người kể chuyện/tác giả [nhân vật Uông]… tất cả đều với một dụng ý, đưa người đọc đi vào mê cung của hư cấu, với ý thức rõ ràng nhấn mạnh đây là một hư cấu đúng nghĩa, một trò chơi tiểu thuyết. Uông Triều thực sự muốn người đọc hiểu và ý thức đầy đủ rằng, mọi diễn ngôn về lịch sử, dẫu bông đùa, phi lý, hay “ra vẻ”, “dán mác” hiện thực hay trung thành với hiện thực lịch sử, thì bản chất đều mang tính chất diễn ngôn nghệ thuật. Ở đó, tính hư cấu sẽ quyết định thế giới của văn bản, và nhà văn liên tục bông đùa, đánh lừa bạn đọc với những trò chơi khăm của hắn ta. Lịch sử cuối cùng chỉ là sự suy tư về lịch sử.

Tóm lại, Hà Nội những mùa cổ điển xứng đáng là một bước tiến mới và lớn trong sự nghiệp tiểu thuyết của Uông Triều, sau những nốt trầm và bước lùi mà anh đã vấp phải. Tác phẩm này chứng tỏ cho khát vọng đổi mới không ngừng, sự học hỏi, tìm tòi từ các kiệt tác thế giới, những trào lưu văn chương thế giới đương đại. Chúng ta một lần nữa hi vọng vào văn chương hậu hiện đại Việt Nam, bởi những tác phẩm xứng đáng có ý nghĩa khai phóng tư duy văn chương đương đại như Hà Nội những mùa cổ điển.

Y.T
(TCSH429/11-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...