Nhớ chim

16:27 27/11/2008
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư  hoàn cảnh”.

“Phi thương bất phú”, ông bà bảo vậy. Nghỉ làm thi nhân, ông chuyển làm doanh nhân, mở quán, chuyên trị tiết canh vịt. Tiết canh ông đánh ngon, càng nổi tiếng, khách khứa tập nập tối ngày sáng đêm, ưu ái gọi quán ông là  “Quán Cạc”, phỏng tiếng kêu của loài gia cầm đáng yêu này.
Gọi là vịt nhưng thực tế là ngan. Ngan là một loài ba phải, đầu lúc nào cũng gật gù, là ngan nhưng gọi vịt cũng không cãi, giống mấy ông thanh tra điện kế điện tử, hay mấy ông Liên đoàn bóng đá. “Kệ. Ngan cũng là một thứ vịt, nhưng to hơn, nhiều tiết lắm bác ạ!”. Ông bảo tôi vậy.
Quán đông, từ sáng tới khuya, xem ra có lãi. Đang “liên tục phát triển” bỗng thấy ông đóng cửa, dẹp tiệm!? Anh em, bạn bè mất một địa chỉ tụ tập hấp dẫn. Hỏi? Ông chỉ cười.

Nhà ông trong một hẻm nhỏ, gần chợ. “Nhất cận thị, nhị cận giang, tiện lợi nhiều đường bác ạ”. Ông bảo tôi thế.
Cái sân thượng nhà ông rộng giỏi lắm khoảng hai mươi chiếc chiếu. Không làm thơ, không mở quán, ông xoay ra “làm vườn”. Một chiếc bể cạn lớn, xây xi măng, uốn éo, có hòn non bộ, có ngư ông, tiều phu, có cây si già nhúng bộ rễ xuống nước, có “chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”, y như thật. Người ta thả cá vàng, cá kiểng thì ông nuôi cá chép, cá rô phi, cá điêu hồng... Được chăm sóc tốt, lũ cá phổng phao, sinh con đẻ cháu lũ lĩ. Góc vườn, mấy cây chanh, ớt xum xuê, mấy luống rau thơm, húng cây, húng chó... mấy chậu hành, ngò thơm ngát không gian. Bụi đinh lăng cành nhánh xanh tươi, lá toẽ chân chim “như thêu ren, chạm khắc”. Một cây nguyệt quế lặng lẽ toả hương. “Mảnh vườn treo Babylone” xinh xắn, bé tý, vậy mà đâm ra có duyên, cũng suối khe róc rách, cũng dập dìu ong bướm lả lơi.

Hôm mời chúng tôi đến chơi, Ông thổ lộ: “Chả biết làm quan sướng như thế nào chứ làm quán cực lắm các bác ạ. Bất cứ ngồi đâu, làm gì, suốt ngày điện thoại réo: “Ông đang ở đâu? Chúng tôi đang chờ ông đây này!”. “Bố về ngay, các bác đợi cả tiếng rồi!” Thế là ba chân bốn cẳng chạy về. Từ mờ sáng tới canh khuya, thôi thì đủ thứ chuyện trên đời. Chuyện nắng, chuyện mưa. Chuyện chẳng ra nắng, chẳng ra mưa, chuyện văn chương, học thuật... Chuyện nào hay lại “Dzô! Dzô!”.  Luận về  phim ảnh nước ta, bèn có thơ rằng: “Ngồi buồn kéo phẹc xem chim - Còn hơn vào rạp xem phim nước mình!”. Thế là đủ để: “Dzô!Dzô!”. Ngày không biết bao nhiêu cuộc, mỗi cuộc bao nhiêu ly!?
-“Thận tôi vốn yếu, cứ mỗi bàn một ly, suốt ngày, đâm ra mắc cái bệnh đái đường từ đấy. Mình là người tử tế, tự nhiên mắc cái bệnh tên nghe chả ra làm sao cả. Thôi thương nhau, tôi “quy hoạch treo” cái vườn này, mời các bác đến chơi”.

Xuất thân quân ngũ, lại có biệt tài nấu nướng, chỉ loáng sau, mấy con cá rô phi vừa nãy tung tăng, giờ được nướng trên than hồng thơm phức, nhờn mỡ, ngay ngắn xếp hàng như lính trên đĩa. Món gỏi cá điêu hồng và nồi cháo cá chép bốc khói ngạt ngào, thơm nhức mũi đã trong tư thế sẵn sàng. Rau trên cây, vặt cả cành, ớt trong chậu, cắn cả trái, ngọn đinh lăng tươi rói, ăn đâu ngắt đấy, rượu Bàu Đá tràn ly, nồng nàn tình bè bạn. Cuối vườn “mùi nguyệt quế hương” thoang thoảng...
Chúng tôi thưởng thức một bữa ăn tuyệt vời, rau sạch, cá sạch, lương tâm sạch, đậm đà hương vị dân dã, rất khó tìm nơi quán hàng sang trọng thời buổi kinh tế thị trường.

Không biết tha nhặt những đâu, vườn ông treo đầy chim, lúc nào cũng véo von tiếng hót. Con cưỡng già to mồm, lanh lảnh rộn ràng hẻm nhỏ. Con cu gáy rù rì xa vắng những trưa hè, gợi nhớ đồng quê ngát hương. Con sáo đá luôn mồm khi khách đến: “Má mày, má mày! Kẻ chộm, kẻ chộm!”.
Ông kể: - Một lần ra ngoại thành, ghé quán thịt chó, ông gặp “nó”. Chủ quán than thở:”Khổ lắm bác ạ! Nhà cháu bán quán, lũ trẻ dậy thế nào mà “nó” suốt ngày chửi khách, chắc cháu phải thả quá!” _ “Ấy chết! Động vật qúy hiếm, ông để tôi lo”. Và ông rước “nó” về. Sáng sáng ông lên sân thượng chửi nhau với chim: “Má mày, má mày! Kẻ chộm, kẻ chộm!” Chửi riết, không còn biết thằng nào chửi má thằng nào, mà trong hai thằng, thằng nào đích thực là: “Kẻ chộm”?

Vừa rồi, đại dịch cúm gia cầm H5N1. Báo đài dồn dập đưa tin. Tỉnh A, huyện B vừa phát hiện ổ dịch. Hàng triệu gia cầm phải thiêu hủy. Cả chim di trú, con cò con vạc cũng dính luôn. Đã cúm thì vô phương. Có thuốc nào trị nổi đâu!?  Dính là “A lế , A lề! Hấp!”. Nghe cũng run.
Một sáng chuông cửa réo. Đoàn cán bộ nghiêm trang được mời vào phòng khách. Một cô rất trẻ, áng chừng VIP, mở lời:” Cháu là phó chủ tịch phường, được giao nhiệm vụ tiêu diệt cúm gia cầm. Nghiêm chỉnh chấp hành lệnh trên, chúng cháu đến thăm và xin hỏi:” Bác có chim không ạ?”. Ngớ ra một phút, ông trả lời: “Có chứ, ai chả có”. -“Vậy xin Bác xử lý cho, bằng không, Bác giao chúng cháu, phường sẽ tổ chức thiêu hủy tập trung, đảm bảo yêu cầu trên giao?”. –“Giao thế nào được. Đem nó đi xử lý, thằng tôi còn ra cái giống gì?”. Căn phòng lặng đi trong một phút, rồi oà vỡ trong tiếng cười. Cô phó chủ tịch trẻ, mặt  đỏ như son: “Ấy không. Là cháu muốn hỏi nhà Bác có nuôi chim không ạ. Chim cảnh ấy?”.–“Có. Chim cảnh thì có. Một số con. Tôi cũng đã thả rồi nhưng chúng nó không chịu đi. Quanh quẩn một lúc lại chui vào chuồng, như gà công nghiệp ấy. Mất khả năng tự kiếm sống rồi. Giống mấy cái doanh nghiệp nhà nước, sắp tới vào WTO, không trước thì sau, chắc cũng chết đói thôi.”
Nghe nói, rồi ông cũng đã cho người nhà mang ra tận bãi sông, tháo cũi sổ lồng cho cả lũ.

Thi thoảng ghé thăm. Ông không mời rượu Bàu Đá với gỏi cá điêu hồng nữa mà mời uống trà. Trà ông pha chậm rãi, cầu kỳ, trong im lặng.
Ông trở nên ít nói, trầm tư, cứ như người mất hồn, đãng trí. Chắc là ông nhớ chim? Bây giờ ai cho chúng ăn? “Hội nhập” với cuộc sống ngoài kia, mạnh được yếu thua, “gà công nghiệp như chúng mày, làm sao sống?”. Mấy con sáo đá quên mất tiếng chim rồi. “Má mày, má mày” lũ chim ngoài kia làm sao hiểu? Còn “Kẻ chộm, kẻ chộm!” thứ ấy  hình như chỉ có trong “cõi người” thôi, chúng mày sẽ sống như thế nào?
Sáng sáng lên dọn vườn. Cái vườn giỏi lắm bằng hai mươi chiếc chiếu, loáng cái xong ngay. Bâng khuâng nhớ cái ngày chúng nó còn đây, sáng sáng chửi nhau, ông chửi nó, nó chửi ông “Má mày, má mày! Kẻ chộm, kẻ chộm!”.
 Ông pha bình trà. Rửa trà, tráng ấm, chén tống, chén chuyên, công phu, lặng lẽ. Một mình bên ấm trà, nhìn ra mông lung, ngóng đến một chân trời, tuồng như quen miệng, lẩm bẩm, lẩm bẩm: “Má mày! Má mày! Hội nhập! Hội nhập!”

Thành phố Hồ chí Minh, Noel 2005
                            N.T.H

(nguồn: TCSH số 206 - 04 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...