Nhận lại một tiếng chuông cho Huế

09:52 15/12/2017

NGUYỄN CAO THÁI

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”

Ảnh: internet

Từ biệt Huế theo gia đình vào Sài Gòn từ khi còn nhỏ lắm nên thực ra tôi không biết Thọ Xương ở đâu, nhưng Thiên Mụ là ngôi chùa lúc còn nhỏ học lớp ba đã một lần được theo nhà trường du ngoạn đến đó nhân mùa Phật Đản, và từng được nghe tiếng chuông chùa ngân vang... cho nên bốn chữ “Tiếng chuông Thiên Mụ” luôn luôn cho tôi một cảm giác thật gần gũi, hãnh diện vì đó là một ngôi chùa lịch sử của quê hương mà chính mình đã có dịp đến tận nơi, nghe tận tai hồi chuông thiêng liêng.

Tôi rời xa quê hương đến gần hai mươi năm sau mới có dịp trở về và ghé qua Hà Nội đến thăm Đền Quán Thánh, một ngôi đền cổ danh tiếng tại miền Bắc, còn gọi là Trấn Vũ Quán. Lang thang giữa những cột trụ đền tôi để ý thấy có một lá phướn vẽ hình cây trúc rất thanh nhã treo trên một cột trụ của đền và đặc biệt cạnh bên có đề hai câu:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông TRẤN VŨ, canh gà Thọ Xương.”


Lần đầu tiên mới thấy hai chữ Trấn Vũ thay cho Thiên Mụ trên câu ca dao của Huế làm vừa ngạc nhiên vừa giận. Trấn Vũ nào đây? Rõ ràng tiếng chuông Thiên Mụ đã in trên sách vở, tại sao tự nhiên thành Trấn Vũ? Và chắc chắn tôi không phải là người đầu tiên cảm thấy vậy, vì ngay dưới chữ Trấn Vũ đó, đã có người viết lại là Thiên Mụ; rồi hai chữ Thiên Mụ đó cũng bị người khác gạch bỏ viết lại thành Trấn Vũ… tiếp tục như vậy khoảng trên chục lần. Cuối cùng nằm dưới hết là hai chữ Trấn Vũ.

Rõ ràng ở trên cây phướn nhỏ này đang diễn ra một trận bút chiến không nhân nhượng giữa những mặc khách tao nhân của hai miền đất nước: Hà Nội nhất định nó phải là tiếng chuông Trấn Vũ, và Huế cương quyết giữ lại tiếng chuông Thiên Mụ của mình. Đã không biết thì thôi, đã biết rồi thì tôi là người con xứ Huế đâu thể làm ngơ.

Từ tiếng chuông Thiên Mụ bị sửa thành Trấn Vũ không phải bởi một người mà bởi rất nhiều người làm tôi thắc mắc. Bốn câu đầy đủ là:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.


Không phải chỉ mình tôi thắc mắc, mà một số các học giả khắp nơi từ trong đến ngoài nước đã qua nhiều lần nghiên cứu, bàn cãi, là tiếng chuông Thiên Mụ hay tiếng chuông Trấn Vũ? Và đưa đến kết luận đó là tiếng chuông Trấn Vũ, bởi vì cả bốn địa danh Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ cùng ở trong một địa phương ở phía tây Cố đô Thăng Long (thời nhà Nguyễn), tức Hà Nội. Nếu là tiếng chuông Thiên Mụ làm sao giải thích được sự hiện diện trong cùng câu thơ của huyện Thọ Xương cách Cố đô Huế đến hàng nghìn cây số?

Dù biết rằng Trấn Vũ mới đúng, và ngôi đền Trấn Vũ đó cũng là một phần của lịch sử dân tộc. Tiếng chuông Trấn Vũ nghe cũng có vẻ hùng tráng hơn là tiếng chuông Thiên Mụ, nhưng mỗi lần đọc “Tiếng chuông Trấn Vũ” tôi không có chút gì cái cảm giác cảm khái, lâng lâng tình tự quê hương như là tiếng chuông Thiên Mụ

Những học giả, nhà thông thái họ bàn, họ nói, họ ghi…. Với tôi thì bao giờ cũng chỉ là tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Nhưng rồi câu chuyện không kết thúc ở đó.

Mấy hôm sau, tình cờ thấy bài viết “Gió đưa cành trúc” của tôi chia sẻ trên trang Facebook được một người shared về Facebook của họ với lời phàn nàn (trích nguyên văn):

“Thế mới biết có những bạn hiểu về văn học Việt Nam quá phiến diện. Tôi sẽ nói ngắn gọn thế này thôi: 2 câu “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Khương” là câu ca dao phát xuất từ Huế, nhằm ca ngợi cảnh đẹp của chùa Thiên Mụ và làng Thọ Khương (sau được đổi thành Thọ Xương để tránh phạm húy với tên của thân phụ vua Gia Long).

Còn “Phất phơ cành trúc trăng tà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mờ khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ” là 1 bài tức cảnh của cụ Dương Khuê, tả về cảnh đẹp vùng Hồ Tây - Kẻ Bưởi của Hà Nội.

2 bài này hoàn toàn khác nhau, chẳng liên quan gì đến nhau cả.”

Chủ trang Facebook trên là một người làm việc trong ngành văn hóa và giáo dục tại Hà Nội tên là Tôn Nữ HC. Mấy câu ngắn gọn của cô đã mở ra một cái nhìn mới cho sự việc. Tôi quả thật không hề biết đến bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của cụ Dương Khuê. Kết hợp những gì cô Tôn Nữ HC góp ý ở trên, và sau đó tìm thêm các bài viết liên quan đến hai câu ca dao này, đặc biệt là hai bài khảo cứu giá trị của BS. Trần Tiển Sum (Pháp) và một bài lưu trữ ở viện Đại học Hà Nội, tôi đi đến kết luận đồng ý với cô HC:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”


là hai câu ca dao xuất phát nguyên gốc từ Huế, không hề vay mượn từ đâu cả. Hai câu nguyên thủy của nó vốn là:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Khương”.


Thọ Khương chứ không phải Thọ Xương. Dựa vào một số tài liệu lịch sử như Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang… đã chứng minh: Từ xa xưa, Thọ Xương ở Huế là tên vùng đất đối diện chùa Thiên Mụ, nguyên tên của nó là Thọ Khương (hay Thọ Khang); đến đời vua Gia Long (1802 - 1820), do kỵ húy đế hiệu thân sinh của nhà vua (Hiếu Khương Hoàng Đế) nên ông đã đổi thành Thọ Xương. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nhà vua đã đổi thành Long Thọ Cương và hiện nay, người địa phương chỉ gọi là Long Thọ, tại đây có nhà máy sản xuất xi măng Long Thọ từ lâu.

Còn hai câu ở Quán Trấn Vũ:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
”.

Thực ra lại là dị bản của một sự áp đặt, chế biến một cách vô trách nhiệm của một số nhà văn hóa. Nguyên bản của tiếng chuông Trấn Vũ vốn là từ bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của cụ Dương Khuê như sau:

Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mờ khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ


Bài thơ có tựa là “Hà Nội tức cảnh” và được tác giả sáng tác sau khi từ giã quan trường ở Huế để ra lại quê nhà. Hậu duệ của tác giả là tiến sĩ Dương Thiệu Tống (1925 - 2008) đã chép bài thơ này in trong cuốn Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm của mình (Nxb. Văn Học, Hà Nội 1995), đồng thời đã có nhận xét là: “Có người đã sửa đổi câu đầu bài thơ này là “Gió đưa cành trúc la đà”, nhưng có lẽ là sai, vì làm mất đi ý nghĩa ngầm của toàn câu, mà chỉ còn ý nghĩa tả cảnh (nổi) mà thôi.”

Khách quan mà nói, ta thấy về ngôn từ, cũng như về ý nghĩa thì hai bài hoàn toàn khác nhau. Câu ca dao ở Huế diễn tả phong cảnh hữu tình, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự vào một buổi sớm tinh mơ khi gà vừa gáy sáng chuyển canh; trong khi bài thơ “Hà Nội tức cảnh” do Dương Khuê sáng tác để gửi gắm nỗi lòng của mình đối với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Bài thơ này của Dương Khuê được sáng tác vào khoảng năm 1870, sau nhiều năm sống tại Huế. Do đó có thể nghĩ rằng, câu ca dao ở Huế đã ảnh hưởng đến tứ thơ của ông. Vì thế, khi trở ra miền Bắc, gặp lúc thời thế nhiễu nhương, ông sáng tác bài này để biểu lộ nỗi lòng của mình. Hai câu đầu của bài thơ là mượn câu ca dao ở Huế, nhưng thay đổi địa danh cho phù hợp với phong cảnh của Hà Nội: chùa Thiên Mụ đổi thành chùa Trấn Vũ, vả lại, do sự trùng hợp: Hà Nội cũng có địa danh Thọ Xương nên đã không cần phải đổi địa danh này.

Tiến sĩ Dương Thiệu Tống dĩ nhiên biết chắc chắn là sai, nhưng ông chỉ có thể bàn là “có lẽ”, bởi những lí do không thể nói ra.

Nhiều nhà xuất bản ở Việt Nam đã lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, đưa đến nhiều tranh cãi. Vì sự tranh cãi này, những người Trấn Vũ đã phổ biến thêm hai câu sau của cụ Dương Khuê thành ra trọn bài:

“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mờ khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”


Cả 4 câu trên chứng minh rằng đây là tiếng chuông Trấn Vũ bởi vì không gian địa lý của làng Thọ Xương, Yên Thái, Tây Hồ... đều cùng tụ về một chỗ chung quanh Trấn Vũ. Lý luận này khiến cho nhiều học giả cũng như độc giả bị thuyết phục. Người viết bài này cũng bị 4 câu ở trên thuyết phục và từng chấp nhận rằng, vốn là tiếng chuông Trấn Vũ.

Tôi nghĩ rằng, nếu cây phướn ở Quán Trấn Vũ ghi “Phất phơ ngọn trúc trăng tà” như câu thơ của cụ Dương Khuê trong bài “Hà Nội Tức Cảnh” thì cho dù câu sau có là “Tiếng chuông Trấn Vũ…”, có lẽ tôi và nhiều người khác cũng sẽ không sửa hai chữ Trấn Vũ thành Thiên Mụ làm gì vì rõ ràng là hai câu: một ở Hà Nội, một ở Huế không liên quan gì với nhau. Nhiều người đã nhầm lẫn, trong đó có tôi, suýt nữa để cho người ta lấy đi mất tiếng chuông Thiên Mụ thiêng liêng đó.

N.C.T  
(TCSH346/12-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.

  • NHỤY NGUYÊN(Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương)

  • LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.

  • HỒ VĨNHMới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy được một văn bản có liên quan đến Phường Đúc Huế.

  • TƯỜNG THITôi trở lại Hương Trà bằng ký ức của hơn 20 năm trước, trên con đường đất băng qua những vườn thanh trà trĩu quả ven con sông Bồ thơ mộng để đến làng Lại Bằng, xã Hương Vân. Một xã tiếp giáp núi và đồng bằng, nơi đã ghi lại dấu ấn lịch chống giặc ngoại xâm của Thừa Thiên Huế - địa đạo Khe Trái.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTrong những năm gần đây, Huế đã được các nhà đông phương học và khách du lịch trong nước và ngoài nước lưu ý.

  • MAI KHẮC ỨNGLăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê thuộc thôn La Khê làng An Bằng huyện Hương Trà cũ, nay là thôn Liên Bằng, xã Hương Thọ, thành phố Huế. Địa thế dải đất này rất đẹp. Hiện thời cây cối ở chung quanh đã lùi xa để lại những khoảng trống nối dài trên các triền đồi thoai thoải, khu lăng trở nên lẻ loi hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂMCó lẽ một trong những loài động vật gần gũi, gắn bó với người dân xứ Huế trong mọi thời cuộc là loài hến. Cho dù trải qua bao thăng trầm, bao biến cố trên mảnh đất nhỏ bé này, mọi thứ có thể thịnh suy nhưng hến vẫn trường tồn. Trường tồn như một nét văn hóa thầm lặng, khiêm tốn, không khua trương, ồn ào,… mà âm thầm tỏa ngát hương.

  • PHAN HỨA THỤYChùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân. Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm bia, hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi cảm tưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà Nguyễn.

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(Tiếp theo SH số 5 – tháng 2 - 1984)

  • NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(B.A.V.H. 1992, trang 189-203)HỒ TỊNH TÂM - Từ thời Gia Long, khi xây kinh thành Huế, một nhánh sông đã được ngăn chặn lại ở trên làng Kim Long hiện nay và dòng sông đó bị lấp đi ở một vài nơi, một số nơi khác thì được mở rộng và uốn nắn lại cho đều đặn. Chính một phần của nhánh sông ngày xưa ấy đã tạo ra Hồ Tịnh Tâm, nay ở tại bên trái đường Lục bộ, gần với Cầu kho, hay vùng nhượng địa (cho Pháp ở Mang Cá lớn).

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại.

  • MAI KHẮC ỨNGBất chợt. Tưởng như có con lợn chạy giữa sân điện Cần Chánh tại Hoàng thành Huế. Định thần lại tôi đã nhìn thấy chúng trong mấy ô trang trí bên thân hai chiếc vạc đồng đúc thuở Kim Long còn là phủ chúa dưới thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mà lạc khoản lại ghi Thịnh Đức thứ 8 và Thịnh Đức thứ 10. Bản chú thích bên hai vạc này ghi là đúc năm 1660 và 1662.

  • L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.

  • PHẠM ĐĂNG TRÍThuở ấy, có nhiều người từ những miền đất màu mỡ nhưng vẫn dời nhà đến ở trên một vùng gò đồi đầy sỏi đá. Nguyên nhân lôi cuốn họ tới đây là do màu sắc thiên nhiên ở chốn này thật là thanh tú, đa dạng và không ngừng thay đổi.

  • LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.

  • Chiều 8.6, tại Nam Châu Hội Quán trên vùng cỏ cây Kim Long xứ Huế, GALA TINH HOA SÔNG HƯƠNG đã được tổ chức nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa - Huế.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNỞ mục “Phương vị quê hương” này, tạp chí sẽ lần lượt đăng các bài tìm hiểu văn hoá ngắn gọn nhưng có… duyên văn chương. Chúng tôi vui mừng được sự hưởng ứng của các nhà nghiên cứu lão thành am hiểu Huế - Bình Trị Thiên như các cụ Bửu Kế, Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Đính, Phạm Đăng Trí… cùng các anh Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An… Chúng tôi cũng mong nhận được bài của các bạn ở các tỉnh miền Trung nói về phong vị quê hương mình để tạo được giao lưu văn hoá trên giải đất gắn bó lâu đời này.

  • MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.

  • NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.