NGUYỄN CAO THÁI
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
Ảnh: internet
Từ biệt Huế theo gia đình vào Sài Gòn từ khi còn nhỏ lắm nên thực ra tôi không biết Thọ Xương ở đâu, nhưng Thiên Mụ là ngôi chùa lúc còn nhỏ học lớp ba đã một lần được theo nhà trường du ngoạn đến đó nhân mùa Phật Đản, và từng được nghe tiếng chuông chùa ngân vang... cho nên bốn chữ “Tiếng chuông Thiên Mụ” luôn luôn cho tôi một cảm giác thật gần gũi, hãnh diện vì đó là một ngôi chùa lịch sử của quê hương mà chính mình đã có dịp đến tận nơi, nghe tận tai hồi chuông thiêng liêng.
Tôi rời xa quê hương đến gần hai mươi năm sau mới có dịp trở về và ghé qua Hà Nội đến thăm Đền Quán Thánh, một ngôi đền cổ danh tiếng tại miền Bắc, còn gọi là Trấn Vũ Quán. Lang thang giữa những cột trụ đền tôi để ý thấy có một lá phướn vẽ hình cây trúc rất thanh nhã treo trên một cột trụ của đền và đặc biệt cạnh bên có đề hai câu:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông TRẤN VŨ, canh gà Thọ Xương.”
Lần đầu tiên mới thấy hai chữ Trấn Vũ thay cho Thiên Mụ trên câu ca dao của Huế làm vừa ngạc nhiên vừa giận. Trấn Vũ nào đây? Rõ ràng tiếng chuông Thiên Mụ đã in trên sách vở, tại sao tự nhiên thành Trấn Vũ? Và chắc chắn tôi không phải là người đầu tiên cảm thấy vậy, vì ngay dưới chữ Trấn Vũ đó, đã có người viết lại là Thiên Mụ; rồi hai chữ Thiên Mụ đó cũng bị người khác gạch bỏ viết lại thành Trấn Vũ… tiếp tục như vậy khoảng trên chục lần. Cuối cùng nằm dưới hết là hai chữ Trấn Vũ.
Rõ ràng ở trên cây phướn nhỏ này đang diễn ra một trận bút chiến không nhân nhượng giữa những mặc khách tao nhân của hai miền đất nước: Hà Nội nhất định nó phải là tiếng chuông Trấn Vũ, và Huế cương quyết giữ lại tiếng chuông Thiên Mụ của mình. Đã không biết thì thôi, đã biết rồi thì tôi là người con xứ Huế đâu thể làm ngơ.
Từ tiếng chuông Thiên Mụ bị sửa thành Trấn Vũ không phải bởi một người mà bởi rất nhiều người làm tôi thắc mắc. Bốn câu đầy đủ là:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”.
Không phải chỉ mình tôi thắc mắc, mà một số các học giả khắp nơi từ trong đến ngoài nước đã qua nhiều lần nghiên cứu, bàn cãi, là tiếng chuông Thiên Mụ hay tiếng chuông Trấn Vũ? Và đưa đến kết luận đó là tiếng chuông Trấn Vũ, bởi vì cả bốn địa danh Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ cùng ở trong một địa phương ở phía tây Cố đô Thăng Long (thời nhà Nguyễn), tức Hà Nội. Nếu là tiếng chuông Thiên Mụ làm sao giải thích được sự hiện diện trong cùng câu thơ của huyện Thọ Xương cách Cố đô Huế đến hàng nghìn cây số?
Dù biết rằng Trấn Vũ mới đúng, và ngôi đền Trấn Vũ đó cũng là một phần của lịch sử dân tộc. Tiếng chuông Trấn Vũ nghe cũng có vẻ hùng tráng hơn là tiếng chuông Thiên Mụ, nhưng mỗi lần đọc “Tiếng chuông Trấn Vũ” tôi không có chút gì cái cảm giác cảm khái, lâng lâng tình tự quê hương như là tiếng chuông Thiên Mụ
Những học giả, nhà thông thái họ bàn, họ nói, họ ghi…. Với tôi thì bao giờ cũng chỉ là tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Nhưng rồi câu chuyện không kết thúc ở đó.
Mấy hôm sau, tình cờ thấy bài viết “Gió đưa cành trúc” của tôi chia sẻ trên trang Facebook được một người shared về Facebook của họ với lời phàn nàn (trích nguyên văn):
“Thế mới biết có những bạn hiểu về văn học Việt Nam quá phiến diện. Tôi sẽ nói ngắn gọn thế này thôi: 2 câu “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Khương” là câu ca dao phát xuất từ Huế, nhằm ca ngợi cảnh đẹp của chùa Thiên Mụ và làng Thọ Khương (sau được đổi thành Thọ Xương để tránh phạm húy với tên của thân phụ vua Gia Long).
Còn “Phất phơ cành trúc trăng tà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mờ khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây hồ” là 1 bài tức cảnh của cụ Dương Khuê, tả về cảnh đẹp vùng Hồ Tây - Kẻ Bưởi của Hà Nội.
2 bài này hoàn toàn khác nhau, chẳng liên quan gì đến nhau cả.”
Chủ trang Facebook trên là một người làm việc trong ngành văn hóa và giáo dục tại Hà Nội tên là Tôn Nữ HC. Mấy câu ngắn gọn của cô đã mở ra một cái nhìn mới cho sự việc. Tôi quả thật không hề biết đến bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của cụ Dương Khuê. Kết hợp những gì cô Tôn Nữ HC góp ý ở trên, và sau đó tìm thêm các bài viết liên quan đến hai câu ca dao này, đặc biệt là hai bài khảo cứu giá trị của BS. Trần Tiển Sum (Pháp) và một bài lưu trữ ở viện Đại học Hà Nội, tôi đi đến kết luận đồng ý với cô HC:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”
là hai câu ca dao xuất phát nguyên gốc từ Huế, không hề vay mượn từ đâu cả. Hai câu nguyên thủy của nó vốn là:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Khương”.
Thọ Khương chứ không phải Thọ Xương. Dựa vào một số tài liệu lịch sử như Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang… đã chứng minh: Từ xa xưa, Thọ Xương ở Huế là tên vùng đất đối diện chùa Thiên Mụ, nguyên tên của nó là Thọ Khương (hay Thọ Khang); đến đời vua Gia Long (1802 - 1820), do kỵ húy đế hiệu thân sinh của nhà vua (Hiếu Khương Hoàng Đế) nên ông đã đổi thành Thọ Xương. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), nhà vua đã đổi thành Long Thọ Cương và hiện nay, người địa phương chỉ gọi là Long Thọ, tại đây có nhà máy sản xuất xi măng Long Thọ từ lâu.
Còn hai câu ở Quán Trấn Vũ:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương”.
Thực ra lại là dị bản của một sự áp đặt, chế biến một cách vô trách nhiệm của một số nhà văn hóa. Nguyên bản của tiếng chuông Trấn Vũ vốn là từ bài thơ “Hà Nội tức cảnh” của cụ Dương Khuê như sau:
“Phất phơ ngọn trúc trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mờ khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”
Bài thơ có tựa là “Hà Nội tức cảnh” và được tác giả sáng tác sau khi từ giã quan trường ở Huế để ra lại quê nhà. Hậu duệ của tác giả là tiến sĩ Dương Thiệu Tống (1925 - 2008) đã chép bài thơ này in trong cuốn Tâm trạng Dương Khuê và Dương Lâm của mình (Nxb. Văn Học, Hà Nội 1995), đồng thời đã có nhận xét là: “Có người đã sửa đổi câu đầu bài thơ này là “Gió đưa cành trúc la đà”, nhưng có lẽ là sai, vì làm mất đi ý nghĩa ngầm của toàn câu, mà chỉ còn ý nghĩa tả cảnh (nổi) mà thôi.”
Khách quan mà nói, ta thấy về ngôn từ, cũng như về ý nghĩa thì hai bài hoàn toàn khác nhau. Câu ca dao ở Huế diễn tả phong cảnh hữu tình, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự vào một buổi sớm tinh mơ khi gà vừa gáy sáng chuyển canh; trong khi bài thơ “Hà Nội tức cảnh” do Dương Khuê sáng tác để gửi gắm nỗi lòng của mình đối với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Bài thơ này của Dương Khuê được sáng tác vào khoảng năm 1870, sau nhiều năm sống tại Huế. Do đó có thể nghĩ rằng, câu ca dao ở Huế đã ảnh hưởng đến tứ thơ của ông. Vì thế, khi trở ra miền Bắc, gặp lúc thời thế nhiễu nhương, ông sáng tác bài này để biểu lộ nỗi lòng của mình. Hai câu đầu của bài thơ là mượn câu ca dao ở Huế, nhưng thay đổi địa danh cho phù hợp với phong cảnh của Hà Nội: chùa Thiên Mụ đổi thành chùa Trấn Vũ, vả lại, do sự trùng hợp: Hà Nội cũng có địa danh Thọ Xương nên đã không cần phải đổi địa danh này.
Tiến sĩ Dương Thiệu Tống dĩ nhiên biết chắc chắn là sai, nhưng ông chỉ có thể bàn là “có lẽ”, bởi những lí do không thể nói ra.
Nhiều nhà xuất bản ở Việt Nam đã lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia, đưa đến nhiều tranh cãi. Vì sự tranh cãi này, những người Trấn Vũ đã phổ biến thêm hai câu sau của cụ Dương Khuê thành ra trọn bài:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mờ khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”
Cả 4 câu trên chứng minh rằng đây là tiếng chuông Trấn Vũ bởi vì không gian địa lý của làng Thọ Xương, Yên Thái, Tây Hồ... đều cùng tụ về một chỗ chung quanh Trấn Vũ. Lý luận này khiến cho nhiều học giả cũng như độc giả bị thuyết phục. Người viết bài này cũng bị 4 câu ở trên thuyết phục và từng chấp nhận rằng, vốn là tiếng chuông Trấn Vũ.
Tôi nghĩ rằng, nếu cây phướn ở Quán Trấn Vũ ghi “Phất phơ ngọn trúc trăng tà” như câu thơ của cụ Dương Khuê trong bài “Hà Nội Tức Cảnh” thì cho dù câu sau có là “Tiếng chuông Trấn Vũ…”, có lẽ tôi và nhiều người khác cũng sẽ không sửa hai chữ Trấn Vũ thành Thiên Mụ làm gì vì rõ ràng là hai câu: một ở Hà Nội, một ở Huế không liên quan gì với nhau. Nhiều người đã nhầm lẫn, trong đó có tôi, suýt nữa để cho người ta lấy đi mất tiếng chuông Thiên Mụ thiêng liêng đó.
N.C.T
(TCSH346/12-2017)
THÁI DOÃN LONGKính tặng thầy: Cao Xuân Hưởng, Nguyễn Trực Luyện và H.N
VÂN LONGHuế đã vào tôi từ thuở thiếu thời qua hai câu thơ của Nam Trân: Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
PHAN THUẬN ANCó một bãi đất trống nằm giữa Ngọ Môn và Kỳ Đài. Nói chính xác hơn, không gian ấy được giới hạn bởi đường 23 tháng 8 ở phía bắc, chân tường Kinh thành ở phía nam, con đường ngắn sau cửa Thể Nhân (thường gọi là cửa Ngăn) ở phía đông và con đường ngắn sau cửa Quảng Đức ở phía tây. Chiều bắc nam của nó rộng gần 125m và chiều đông tây dài khoảng 360m.
HỒ VĨNHTôi đứng trên sân thượng Sài Gòn- Morin Huế, nhìn lên phía Tây thành phố trong buổi chiều tà le lói vài tia nắng trên các tán lá rất cao. Nhìn về phía Bắc sông Hương, Thành nội cổ kính chìm trong cây xanh.
NGUYỄN THANH HÙNGTôi chưa biết Huế nên buồn vì bỏ qua một vẻ đẹp. Buồn vì mãi mãi không thể chiêm ngưỡng cố đô của đất nước một thời ngang ngửa. Một khoảng trống văn hóa về cổ vật kiến trúc nguyên vẹn của tịnh đô Huế không thể lấp đầy trong tôi, luôn tin tưởng vào sự hữu linh của vạn vật.
NGUYỄN TRỌNG HUẤN(Nhân xem “Huế - đất mẹ của tôi” sách ảnh của Đào Hoa Nữ. Nhớ Huế, suy ngẫm và…. cảm nhận)
TRƯƠNG THỊ THUYẾT1. Huế không chỉ nổi tiếng là một thành phố đẹp, nên thơ với những danh lam thắng cảnh như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ và những lăng tẩm cổ kính...mà còn được du khách biết đến bởi những nghề truyền thống của mình.
LÊ THỊ KIỀU HẠNHHiếm có một vùng đất nào trên thế giới mà con người đã tạo ra một bản sắc văn hóa độc đáo như kiểu nhà vườn Huế.
DĨNH QUỐC ANHLăng tẩm Huế là một trong những thành tựu rực rỡ bậc nhất của kiến trúc văn hóa cổ Việt Nam. Ngoài 8 lăng chính của các vua Gia Long, Minh Mạng,Thiệu Trị, Tự Đức, Dục Đức, Kiến Phúc, Đồng Khánh, Khải Định, còn có đến hàng ngàn ngôi mộ tồn tại qua nhiều thế kỷ của các bậc danh nhân văn hóa, người có công với đất nước.
LÊ VIẾT XUÂNCó thể nói, so với các Bảo tàng và Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh toàn quốc, thì Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên - Huế có một vị trí quan trọng, sau khu Di tích Kim Liên (Nghệ An), khu Di tích Pác-Bó (Cao Bằng), khu Di tích Phủ Chủ tịch và Bảo tàng Hồ Chí Minh Hà Nội.
BẢO ĐÀN 1. Đặt vấn đề1.1. Như một sự ngẫu nhiên của lịch sử, xứ Huế - từ vùng đất biên viễn quốc gia trong nhiều thế kỷ, trở thành thủ phủ của vùng miền và là kinh đô của một quốc gia thống nhất sau đó. Đây chính là nền tảng thuận lợi để vùng đất này hội tụ, quy tập cho mình một hệ thống làng nghề thủ công, cần thiết cho sự tồn tại và làm tròn vai trò của một vùng trung tâm.
BỬU Ý28 Tháng Hai lại về, gợi nhớ về sinh nhật của Trịnh Công Sơn. Vào thời điểm này, bạn bè Trịnh Công Sơn ở Huế và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đang chuẩn bị cho Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn theo chủ trương của UBND tỉnh và mong muốn của những người yêu mến nhạc sĩ tài hoa này.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Bửu Ý- người bạn rất gắn bó với Trịnh Công Sơn - như một gợi ý mời gọi bạn bè cùng góp ý để sớm hình thành ý nguyện này.
THANH TÙNGNhững dịp lễ hội, những chiều hè gió lộng và đẹp trời, trên bầu trời cố đô Huế rực rỡ đủ sắc màu của những cánh diều mượt mà trong hình dáng các loài chim, thú: long, lân, ly, phụng, công, bướm, quạ. Đặc sắc nhất thì diều đại bàng cứu công chua, diều bướm đốt pháo, diều Tôn Ngộ Không...
NGUYỄN QUANG HÀCả khung trời hồng dần lên. Sóng Tam Giang lấp lánh hồng. Con thuyền của chúng tôi như rẽ bình minh đi thẳng đến mặt trời. Bầy chim trời đang ăn trên mặt phá, gặp động, chúng rào rào vỗ cánh vù bay lên, rợp trời, như một đám mây, rồi lại rào rào hạ cánh đáp xuống phía phá bên kia.
TRƯƠNG THỊ THUYẾTĂn là một biểu hiện của văn hóa. Nghiên cứu nhóm từ chỉ cách ăn uống, chỉ các món ăn của Huế là tìm ra những nét riêng biệt trong sắc thái văn hóa Huế.
THANH TÙNGVăn hoá tâm linh là một loại hình văn hoá tinh thần đặc thù của nhiều dân tộc trên thế giới. Với người Việt, từ xưa đến nay văn hóa tâm linh thể hiện ở tình cảm linh thiêng, ở niềm tin và sự tri ân của mọi người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất nước; các vị tiền hiền được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng; thể hiện sự kính trọng và cầu mong sự che chở của các vị thiên thần v.v…
TRẦN HÀ TRUNGCứ mỗi lần nghe tiếng trống vang khắp nước, nhất là ở Đống Đa lịch sử (mồng năm tháng giêng) lòng tôi rộn ràng từ những ngày bé nhỏ.
HỒ VĨNH Phóng sựTôi đứng trên nhà bia lăng Minh Mạng thì nghe kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đột ngột qua đời vì bệnh tim. Tôi bàng hoàng lặng người trong giây lát rồi đạp xe về Thế Miếu nơi công trình Kazik đang trùng tu.
TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)