Lẽ ra, nếu không có sự bủa vây của đại dịch Covid-19, nhiều hoạt động để tưởng nhớ 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tế Hanh (20/6/1921 – 20/6/2021) đã được tổ chức trong tháng 6 vừa qua.
Nhà thơ Tế Hanh khi ở độ tuổi sung sức trong sáng tác.
“Một người tinh lắm”
Tôi có may mắn gặp nhà thơ Tế Hanh một vài lần, nhưng nhớ nhất là lần đến nhà ông. Khi đó là những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, mắt ông đã mờ đục không nhìn rõ người đối diện. Nhà số 10 phố Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội) nhuốm màu thời gian.
Trên tầng 2 có gia đình nhà thơ Tế Hanh và gia đình nhà văn Nguyễn Văn Bổng sinh sống. Lúc bấy giờ, cả hai tên tuổi của làng văn này đều không còn khỏe. Nhà thơ Tế Hanh thì dẻo hơn, trí tuệ còn minh mẫn, và ông có thể ngồi trò chuyện văn chương.
Trong buổi sáng hôm ấy, tôi có hỏi ông nhiều chuyện, chuyện văn chương, sáng tác và hỏi ông có đọc sáng tác của các cây bút trẻ mới xuất hiện không. Khi đó, ông nói rằng rất chờ đợi vào những cây bút trẻ. Sau này, tôi gặp lại ý của ông trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại”.
Ở đó, nhà thơ Tế Hanh khẳng định: “Trong đời của người làm thơ thì tuổi trẻ là quan trọng nhất. Đó là thời kỳ sung sức không nên bỏ qua. Tuổi trẻ ấy từ 26 đến 40. Vì thế, người làm thơ lớn tuổi phải biết quý trọng những nhà thơ trẻ vì họ là tương lai của nền thơ ca đất nước”.
Nhưng lưu lại trong trí nhớ tôi nhiều nhất, đó là một Tế Hanh nặng lòng với quê hương. Ông nói rằng, một trong những mong muốn sau cuối của ông là khi nằm xuống, được trở về với quê hương. Tôi biết, nơi đó đã để lại trong ông nhiều cảm xúc, nhiều kỷ niệm. Nơi đó cũng có con sông quê tắm mát tâm hồn, là nguồn cảm hứng để Tế Hanh sáng tác nhiều bài thơ nổi tiếng…
Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ra và lớn lên tại xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ông kể rằng, đó là một vùng đất ven biển, phong cảnh hữu tình, dân cư sống chủ yếu bằng nghề chài lưới.
Cha ông là một người yêu thơ, làm nghề dạy học và làm thuốc. Thuở nhỏ, Tế Hanh học ở trường làng, trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại Trường Khải Định (tức Quốc học Huế).
Ham thích và có năng khiếu thơ ca, Tế Hanh bắt đầu sáng tác bài thơ đầu tay năm 1938, khi mới 17 tuổi. Đó là bài “Những ngày nghỉ học”. Sau đó, ông tiếp tục với nhiều bài thơ khác.
Một năm sau, những sáng tác này của Tế Hanh được tập hợp và in thành tập thơ “Nghẹn ngào”. Chính tập thơ này đã giúp Tế Hanh đến với phong trào Thơ Mới và nhận được giải Khuyến khích của Tự lực Văn đoàn.
Nhà thơ Tế Hanh tham gia cách mạng từ tháng 8/1945, rồi nhận Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Chi hội Văn nghệ Liên khu V tặng cho tập thơ “Nhân dân một lòng” (1953).
Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh – Hoài Chân từng viết: “Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.
Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi...”.
Sâu nặng tình quê
![]() |
Một số tác phẩm của nhà thơ Tế Hanh. |
Có thể chia sự nghiệp văn chương của Tế Hanh thành hai giai đoạn, đó là trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Có ý kiến cho rằng, Tế Hanh là một “bông hoa nở muộn” trên thi đàn Thơ Mới.
Khi Thơ Mới bắt đầu đi vào các đề tài siêu thực, siêu hình thì Tế Hanh lại xuất hiện và hấp dẫn người đọc bằng sự chân chất, tình cảm. Khi mỗi nhà thơ là một thế giới riêng với bao vui buồn, đau thương, tuyệt vọng... thì thơ Tế Hanh là một khuôn mặt học trò dễ thương, với những cảm xúc chân tình, bé nhỏ, được người đọc đón nhận nồng nhiệt.
Nhưng điểm nổi bật, ghi nhớ cái tên Tế Hanh với nhiều người, đó chính là những bài thơ đặc sắc viết về quê hương. Khung cảnh làng quê với dòng sông và biển cả: “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng/ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm/ Con thuyền im bến mỏi trở về nằm/ Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” (bài “Quê hương”, 1939).
Bài thơ đã làm nên một hiện tượng trong đời sống thi ca lúc ấy, nó vượt qua những bài thôn ca quen thuộc và mở ra một khía cạnh còn rất mới mẻ về đề tài thôn quê, nâng cảm xúc thôn dã thành một chủ đề có tầm khái quát sâu sắc hơn, đó là quê hương.
Sau này, Tế Hanh còn khẳng định tình yêu quê hương xứ sở của mình trong thi phẩm “Nhớ con sông quê hương” (1956): “Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre…/ Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây/ Bỗng dâng cả một nỗi tràn đầy/ Hình ảnh con sông quê mát rượi”.
Những vần thơ da diết ấy từng được chọn đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy, và đồng hành với tâm hồn nhiều thế hệ người Việt Nam. Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học), bài thơ “Nhớ con sông quê hương” thực sự là đỉnh cao của tiếng thơ yêu nước và khát vọng thống nhất đất nước.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Tế Hanh thể hiện một tiếng thơ dung dị, khiêm nhường, không rực rỡ, tân kỳ, không bất ngờ, ào ạt. Thơ ông cũng như con người ông, nhỏ nhẹ và mực thước, vừa đủ để tạo nên dấu ấn riêng.
Ở thời kỳ nào, giai đoạn nào ông cũng có những bài thơ hay, được giới phê bình và người đời nhắc nhớ, ghi nhận. Vượt lên số bài bậc trung, thi sĩ Tế Hanh để đời bằng những tứ thơ đằm thắm tình người, tình đời, man mác những yêu thương, nhớ thương, ước nguyện.
Thi sĩ Tế Hanh còn có nhiều bài thơ được người đời yêu mến, như “Mảnh vườn xưa”, “Bài thơ tình ở Hàng Châu”…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho rằng, nhà thơ Tế Hành có nhiều bài thơ hay, nhưng “Mảnh vườn xưa” là một trong những bài thơ mà ông yêu thích nhất: “Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh/ Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc/ Hai ta ở hai đầu công tác/ Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?/ Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa/ Như Mặt trăng Mặt trời cách trở/ Như sao Hôm sao Mai không cùng ở/ Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?...”.
Theo ông Thiều, bài thơ dẫn mỗi chúng ta trở về khu vườn cũ của mình. Và ở đó, quá khứ hiện về trọn vẹn, da diết và sống động. “Rất nhiều người trong chúng ta có một mảnh vườn như thế. Ở đó, chúng ta đã có những tháng ngày đẹp đẽ và xao động với một ai đó rồi chúng ta phải chia tay người đó và ra đi.
Chúng ta thường mong trở về khu vườn ấy với hy vọng gặp lại người xưa cũ kể cả trở về trong giấc mơ”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét, và cho biết: Bài thơ này ra đời năm 1957 và tôi cũng ra đời năm đó. Có lẽ đó cũng là một lý do mà tôi thấy gần gũi lạ thường với bài thơ. Tôi có cảm giác ông đã viết về chính khu vườn ở chốn quê tôi.
Thơ phải gắn liền với dân tộc và đất nước
Từ trái sang: Các nhà thơ Nông Quốc Chấn, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Hoàng Trung Thông.
Sau năm 1945, cũng như nhiều thi sĩ khác, Tế Hanh có sự chuyển mình cùng nền văn học cách mạng. Đọc lại những bài thơ ông viết ở thời kỳ này thấy có nhiều thay đổi cả về nội dung và hình thức.
Nhưng như đã nói cảm nhận của tôi trong lần trò chuyện với ông ở nhà riêng, đó là một con người luôn hoài nhớ cố hương. Điều ấy, hiển hiện không chỉ qua tâm sự, mà bây giờ độc giả thế hệ sau khi cầm bộ “Tế Hanh toàn tập” (2 tập) trên tay, đọc lại những bài thơ ông viết, cũng nhận ra điều đó.
Những bài thơ được bạn văn cũng như giới phê bình đánh giá là thành công nhất của đời thơ Tế Hanh cũng chính là những bài thơ về quê hương: “Nhớ con sông quê hương”, “Mặt quê hương”, “Nói chuyện với sông Hiền Lương”, “Chiêm bao”...
Tên gọi các tập thơ của Tế Hanh cũng đã phần nào nói lên tình cảm ruột thịt giữa hai miền Nam - Bắc trong suốt 20 năm đấu tranh: “Lòng miền Nam” (1956), “Gửi miền Bắc” (1958), “Tiếng sóng” (1960), “Hai nửa yêu thương” (1963), “Khúc ca mới” (1966), “Ði suốt bài ca” (1970), “Câu chuyện quê hương” (1973), “Con đường và dòng sông” (1980)… Sau này, sự dịch chuyển về phương diện đề tài trong thơ Tế Hanh còn thể hiện qua những tập thơ “Bài ca sự sống” (1985), “Thơ Tế Hanh” (1989), “Giữa anh và em” (1992), “Em chờ anh” (1994)...
Giới nghiên cứu văn học cho rằng, các tập thơ của ông là sự thể hiện những rung động sâu sắc về các vấn đề riêng - chung, về các sự kiện xã hội, về con người và cuộc sống theo cách rất riêng, với một tấm lòng và một bước tiến mới về nghệ thuật.
Nhà thơ Tế Hanh từng nói rằng, đời ông, dù có lúc viết được, khi không viết được nhưng luôn nghĩ về thơ và làm những việc khác để chuẩn bị cho sáng tác. Ông quan niệm: “Tôi nghĩ người làm thơ phải xuất phát từ thực tế của cuộc đời và sự sống, phải có trách nhiệm với ngòi bút của mình.
Tôi không tin vào những trường phái cho thơ là huyền bí, viết được là do những kinh mộng ảo bên ngoài. Thơ phải gắn liền với dân tộc và đất nước. Trái tim của nhà thơ rung động theo những chuyển biến quan trọng của lịch sử. Nhưng nhà thơ không nên chạy theo thời sự hàng ngày và biến sáng tác của mình thành những bài báo thông thường”.
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn từng dành nhiều tình cảm khi viết về Tế Hanh: “Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình.
Tập “Nghẹn ngào” từng được Giải thưởng Tự lực Văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh”.
Trong cuộc đời mình, nhà thơ Tế Hanh từng làm việc trong Ban phụ trách Trường Trung học Bình dân Trung Bộ (năm 1947). Năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách Liên đoàn Văn hóa Kháng chiến Nam Trung Bộ, ủy viên thường vụ Chi hội Văn nghệ Liên khu V.
Năm 1957, ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam, sau đó tham gia Ban Chấp hành nhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban Đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng Dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng Thơ (1986)…
Bên cạnh sáng tác, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết giới thiệu, phê bình văn học.
Ông đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật đợt 1 (1996).
Nhà thơ Tế Hanh mất ngày 16/7/2009 tại Hà Nội. |
Theo Quỳnh Chi - GD&TĐ
HỒ ANH THÁI
Tình yêu quê hương, tình yêu gia đình, những khám phá thú vị trong cuộc sống xa xứ là điểm chung trong hai tác phẩm “Bốn mùa hoang vu xứ kiwi” và “3,1kg hạnh phúc” của hai tác giả trẻ Trần Băng Khuê và Mai Thanh Nga cho bạn đọc thấy được phong vị của những vùng đất khác nhau cũng như cuộc sống của những người Việt trẻ xa xứ.
Sức viết của nhà thơ ngoài lục thập Đinh Ngọc Diệp (sinh năm 1956) có dấu hiệu mạnh lên khi trước thềm xuân mới, ông ra mắt tập “Hành trình 6” (NXB Hội Nhà văn).
Sau giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam, mới đây, đạo diễn Xuân Phượng tiếp tục nhận thêm giải thưởng văn xuôi của Hội Nhà văn TPHCM cho hồi ký Gánh gánh… gồng gồng… (NXB Văn hóa - Văn nghệ). Tác phẩm đã phần nào khắc họa chân dung của tầng lớp trí thức Việt Nam trong 2 giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
“Duyên” - tôi biết đến tác giả Nguyên Phong từ cuốn sách Đường mây qua xứ tuyết . Tôi cũng đọc qua về tiểu sử, con đường sự nghiệp của ông. Thật đáng để ngưỡng mộ!
Nhà thơ, nhà báo Vương Tâm vừa ra mắt tuyển “Thơ chọn Vương Tâm” (NXB Hội Nhà văn), với 180 bài thơ và một số bức tranh minh họa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Nhắc tới nhà văn Nguyễn Văn Thọ, bạn văn thường nhớ tới tiểu thuyết “Quyên”; các tập truyện ngắn: “Gió lạnh”, “Vàng xưa”, “Hương mĩ nhân”, “Vườn mộng”; các tập bút ký và tản văn: “Đào ở xứ người”, “Đầu ngọn sóng”… Ông còn sáng tác thơ, vẽ và viết kịch bản phim… Nhớ về thời hoa niên nhiều ước vọng, ánh mắt ông lấp lánh niềm vui.
“Sống mãi trên quê hương anh hùng” (NXB Quân đội nhân dân, 2021) là cuốn sách được viết theo thể loại truyện ký, về cuộc đời của một người anh hùng đã cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Kim Vang - hình ảnh đại diện cho một thế hệ thanh niên lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sẵn sàng hy sinh không tiếc tuổi thanh xuân, xương máu của mình cho hòa bình, thống nhất của dân tộc...
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm quen thuộc với nhiều thế hệ bạn đọc. Đến nay, mặc dù đã được phổ biến rộng rãi, nhưng không phải mọi cắt nghĩa về nó đã thật thấu đáo, thuyết phục.
Nỗ lực không ngừng nghỉ của các nhà nghiên cứu lý luận văn học Việt Nam trong nhiều thập niên qua là giới thiệu, nghiên cứu, tổng thuật các hệ thống lý thuyết để vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn văn học.
Với 17 truyện ngắn gọn gàng, tập truyện ngắn “Gió thổi trước hiên nhà” vừa được NXB Văn học ấn hành, mở ra một thế giới ngổn ngang, đa tạp của cuộc sống đời thường từ miền quê đến phố thị với đủ mọi cung bậc cảm xúc, những cảnh đời buồn vui, đặc biệt là những thân phận đàn bà nhọc nhằn, cay đắng.
Nhãn sách Văn sử tinh hoa thuộc Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam (Tri Thức Trẻ Books) vừa phát hành cuốn "Phong vị xuân xưa - Ngày xuân xem sách biết việc cổ kim". Tác phẩm được sưu tầm, tuyển chọn từ nhiều cuốn sách, báo, tạp chí trong giai đoạn từ 1920 đến khoảng 1945.
Mấy năm gần đây, nhiều danh tác Việt đã được phát hành lại, mang đến cho độc giả hiện đại cơ hội tiếp cận dễ dàng hơn các ấn phẩm có tuổi đời trên dưới một thế kỷ. Không đơn thuần là “bình mới rượu cũ”, nỗ lực này còn mang tính gợi mở, góp phần định vị, thúc đẩy đa dạng chiều kích văn chương.
“Bốn nhà văn nhà số 4”, NXB Hội Nhà văn, của nhà phê bình Ngô Thảo dày dặn, chia làm bốn phần, tập hợp 35 bài viết của tác giả về bốn nhân vật văn chương nổi tiếng mà sự nghiệp gắn liền với ngôi nhà số 4 phố Lý Nam Đế - tạp chí Văn nghệ quân đội. Đó là Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Thu Bồn.
Truyện ngắn đối với những tác giả trẻ, mới viết văn, nhiều người tự khám phá mình, bao giờ cũng qua một thử thách. Dương Hương - một tác giả trẻ vừa cho ra mắt tập truyện ngắn “Giá của đàn bà” với nhiều cảm xúc mới mẻ. Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà văn Trung Trung Đỉnh về tập truyện ngắn , của tác giả Dương Hương, do Liên Việt ấn hành.
Cầm trên tay cuốn “Thời xuân sắc” của nhà văn Huệ Ninh (NXB Thế giới, 2020) - hồi ký của một người phụ nữ bình thường, tôi thật sự xúc động và còn thấy tiếc, tự hỏi sao sách không dày hơn nữa.
“Nấp” trong nhà báo Trần Nhật Minh với vẻ ngoài “đồ sộ, quánh màu nước thời gian”, là trái tim thi sĩ nhiều rung động. Cho nên, có lẽ đã lần lữa mãi, thì cũng phải đến ngày tâm hồn chật căng, buộc phải tỏa lan hương chất mà tháng năm cuộc đời mình đã trầm tích.
“Hừng Đông” viết về “đêm trước” của cách mạng Việt Nam, giai đoạn trước khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Trong bối cảnh ấy, nhà văn không chạy theo sự kiện, biến cố, mà hướng tới con người cụ thể với tư cách một nhân vật văn học - chiến sĩ Cộng sản Phan Đăng Lưu.
“Lắng đọng và suy nghĩ” (NXB KH&KT, 2020) cái tên sách khiêm tốn của Tạ Quang Ngọc trở nên cuốn hút tôi. Và sự chắt lọc trí tuệ, cũng như chân thành cảm xúc, chân thành tự bạch trong cuốn sách này đã không chỉ khiến tôi cảm phục tác giả, mở mang tri thức, mà còn nâng thêm cho mình bản lĩnh, bồi đắp tình yêu con người, tình yêu đối với quê hương đất nước và sự nghiệp cách mạng.
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.