Có tiếng trong giới mộ điệu âm nhạc từ thập niên 1990, song đến bây giờ nhạc sĩ (NS) Nguyễn Việt Hoàng mới đóng góp cho quê hương nhạc phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” nhân Festival Huế 2018.
Nhạc sĩ Nguyễn Việt Hoàng (phải), tác giả lời hát “ai về cầu ngói Thanh Toàn”
Trăn trở
NS Nguyễn Việt Hoàng kể, so với nhiều sáng tác khác, trong đó có ca khúc “Thao thức bóng quê” từng được Nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền thể hiện rất thành công thì để viết nên “Ai về cầu ngói Thanh Toàn”, ông mất đến 6 năm trăn trở.
Mong muốn đóng góp bài ca cho “Chợ quê ngày hội”, nhưng để trình làng một nhạc phẩm “quê hương ca” không hề đơn giản, vì thế từ Festival Huế 2014 - 2016, “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” vẫn chỉ là “dự án âm nhạc” mà ông ấp ủ. NS Nguyễn Việt Hoàng quan niệm, mỗi tác phẩm âm nhạc đều cần sự đầu tư. Đặc biệt, với ca khúc viết về nơi chôn nhau cắt rốn, phải kỹ đến từng chữ, từng nốt nhạc, phản ảnh đúng và chân thật. Mỗi câu viết ra, Nguyễn Việt Hoàng đắn đo sửa đi sửa lại. “Thậm chí trên giường bệnh điều trị sỏi thận, tôi đem tác phẩm tâm sự với bác sĩ Kiều Giáp Thành (đồng tác giả về phần lời) từ đó, sự góp ý của bác sĩ Thành làm cho tôi thêm vững tâm với sáng tác”, NS Hoàng nói.
Tháng 2/2018, “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” chính thức hoàn chỉnh, mở đầu bằng ca từ trong điệu hò quen thuộc “Ai về cầu ngói Thanh Toàn, cho em theo với một đoàn cho vui”. Đoạn đầu như khúc tâm tình ngọt ngào của xứ sở quê hương xen lẫn phần điệp khúc nói về niềm vui sướng tưng bừng ngày hội. Sau 1 tháng thu âm, “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” được chọn đăng tải trên tạp chí Sông Hương số đặc biệt tháng 3/2018 và được các nghệ sĩ Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch Huế chọn biểu diễn tại chương trình văn nghệ lễ hội “Chợ quê ngày hội 2018”.
Khi tác phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” đến tai PGS. TS. Nhà giáo nhân dân Lô Thanh, ông đã phải thốt lên: “Đây là một tác phẩm hoàn chỉnh, mang tính chất dân ca, có hát, có lĩnh xướng… Nhạc tốt, lời hay thể hiện được sức sống miền quê.”.
Còn với Nghệ sĩ ưu tú Mai Lê (người thể hiện ca khúc), “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” là một sáng tác lạ ở chất dân ca nhưng rất Huế, gần gũi. “Có những bài hát khi NS chuyển tới, tôi từ chối nhưng với “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” tôi nhận lời, chỉ mấy ngày sau là thu và tập luyện cho “Chợ quê ngày hội”. Với tôi, đây là ca khúc hay”.
Khai thác thế mạnh dân ca
Lần thăm quê từ Festival 2012 cũng đánh dấu bước ngoặt hồi hương của NS Nguyễn Việt Hoàng, đồng thời chuyển hướng sáng tác, nghiên cứu, khai thác thế mạnh dân ca miền Trung để cho ra đời những bài ca quê hương mang đậm chất dân ca.
Dưới góc nhìn của chuyên gia âm nhạc, PGS. TS. Nhà giáo nhân dân Lô Thanh cho rằng, Nguyễn Việt Hoàng là một trong số ít những người mạnh dạn khai thác và sử dụng dân ca Bình Trị Thiên cho sáng tác âm nhạc và đáng trân trọng. Trong quá khứ, cũng có một số NS từng sử dụng dân ca Bình Trị Thiên để sáng tác như Trần Hoàng, Lê Anh… tuy nhiên, giai đoạn hiện nay, khuynh hướng sáng tác này rất ít. “Thừa Thiên Huế nói riêng, khu vực Bình Trị Thiên nói chung thì dân ca rất mạnh nhưng không được nhiều NS khai thác như dân ca hai miền Nam, Bắc. Có thể vì quan điểm của NS chọn phong cách sáng tác mới, điều này là sự đáng tiếc”, ông Thanh nói.
NS Nguyễn Việt Hoàng tâm sự, khi tuổi dần xế chiều là lúc người ta nghĩ nhiều về quê hương và mong muốn đóng góp, nhất là những người đã xa quê quá lâu và có tình yêu đặc biệt với quê hương. Sau “Ai về cầu ngói Thanh Toàn”, những tác phẩm mới sẽ được khai thác dựa trên vốn dân ca quý báu của miền Trung và không đặt nặng vấn đề tác quyền, chỉ mong quê cha đất tổ và người dân Huế có thêm những ca khúc về quê hương.
Nhạc sĩ Nguyễn Việt Hoàng (sinh năm 1961), quê gốc tại xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy nhưng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Ông bắt đầu sáng tác từ năm 1987 khi tham gia nghĩa vụ quân sự tại Đại đội Thông tin, Bộ Chỉ huy Quân sự Quảng Nam – Đà Nẵng. Năm 1988, Nguyễn Việt Hoàng viết ca khúc “Tiếng đàn” và sau đó giành “Giải thưởng âm nhạc tuổi trẻ 1993”, tặng phẩm “Tác phẩm âm nhạc hay nhất năm 2003” do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam và Tạp chí Văn nghệ Quân đội trao tặng. Năm 1997, ông vào học tại Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh và cho ra đời nhiều sáng tác, trong đó có nhiều ca khúc nổi tiếng, được Nghệ sĩ Nhân dân Thu Hiền, nghệ sĩ ưu tú Kim Tiến, nghệ sĩ ưu tú Minh Quang… thể hiện thành công. |
Theo Hữu Phúc - TTH
VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.
Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).
PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.
THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.
YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.
VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.
THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.
TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.
THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.
PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.
LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.
LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...
NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.
VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.
VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.
TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.
TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang