Người quê tết quê

16:15 28/01/2022

NGUYỄN ĐẮC THÀNH

Tết ở quê, người làng luôn tự túc mọi thứ. Giản đơn, bình dị, không khoa trương, nhưng luôn đem lại một không khí rất khác, ấm cúng, sum vầy.

Những khóm vạn thọ của ba tôi mỗi dịp tết đến

Chuẩn bị cho tết, không thể thiếu hoa hòe. Ba tôi năm nào cũng tự tay trồng vài chậu vạn thọ, cúc, lay ơn. Với kiểu người truyền thống như ông, những loài hoa đó luôn luôn đại diện cho hình ảnh của tết. Mà thực sự, lúc nào tôi thấy một khóm vạn thọ bung hoa, y rằng thấy không khí tết. Nơi tôi ở, nhiều người vẫn thích tự trồng hoa cho tết. Không nhiều, chỉ một vài chậu. Nhưng, gì thì gì phải có vạn thọ. Một loài hoa mặc định cho tết. Thiếu nó thấy tết mất đi ít nhiều. Cũng có thể nó đã gắn bó với người dân quê với những cái tết trong nghèo khó, để đến giờ dù có nhiều sự lựa chọn cho việc chưng hoa ngày tết, người ta vẫn thích trồng nó mỗi dịp xuân đến.

Tầm tháng cuối 9 Âm lịch, mạ tôi đi chợ mua chục con vịt cỏ về nuôi. Bầy vịt nuôi đến tết là lớn; cũng là lúc thời gian kéo dần đến cuối năm, mạ lại làm đất chuẩn bị cho vườn rau. Với bà, tết không thể thiếu rau. “Thịt thà nhiều có ít rau vào ăn cho đỡ ngán”, mạ vẫn hay lý giải vậy. Bà làm đất kỹ lưỡng, rải phân chuồng đã hoai mục rồi gieo hạt xuống. Lấy rơm ủ ấm cho hạt dễ nảy mầm. Tầm một tuần, cải đã ăn được. Xà lách, thì bà nhổ tỉa trồng thêm ở đám đất khác. Cải cứ hết luống này lại gieo luống khác. Loại cải nào cho củ thì để lớn. Cải trồng nhiều ăn không hết lại đem làm dưa. Vườn rau ăn kéo dài đến tháng 3.

Ở quê, người ta luôn có một sự chuẩn bị như vậy. Họ luôn chủ động để không bị phụ thuộc quá nhiều vào chợ đò. Dân quê chỉ mua mỗi bánh kẹo, mứt, hạt dưa vào dịp tết. Còn lại chủ yếu tự cung tự cấp. Nhà tôi ít khi mổ heo ăn tết, năm nào cũng chia phần với nhà khác. “Một đùi là đủ ăn tết và ra Giêng”, mạ nói. Thịt heo chia về, bà làm cẩn thận. Cái để làm mâm cúng, cái ngâm nước mắm. Món thịt heo ngâm nước mắm ăn với rau cải, xà lách luôn cho cảm giác vừa miệng, không ngấy. Có thể tôi là một đứa con của làng nên những ý niệm về quê, về sự bình dị vẫn bám lấy. Tôi rất thích cái cách chuẩn bị tết của người quê, không cầu kỳ, bày vẽ nhưng nó đủ ấm cúng, đủ xôn xao, đủ không khí. Rau cải đã gieo lên xanh trước đó nửa tháng. Heo, gà vịt nuôi vừa kịp lớn. Nếp gói bánh, nấu xôi đã phơi khô, cất trữ từ vụ hè thu. Nhà nào có được buồng chuối, ít trái cây quanh nhà thì coi như tết toàn cây nhà lá vườn. Tết ở quê, toàn quà của vườn, của nhà nên rất đậm vị. Cái cách người dân san sẻ cho nhau những tàu lá chuối để gói bánh, dù không lớn nhưng nó mang lại một sự gần gũi, thân thương.

Khi thời gian dần trôi về cuối tháng 11 Âm lịch, bản tin dự báo thời tiết nắng ráo kéo dài, ba tôi lại nhắc nhở đi đào cát trắng về đãi, phơi khô để cuối năm còn thay bát hương gia tiên. Mấy thằng trong xóm lại rủ nhau ra rú cát cách đó không xa, đào sâu xuống lấy lớp sạch nhất rồi chở về. Cát đãi qua nhiều nước, đem phơi chừng hai nắng, trắng phau. Cát khô, đem bỏ bao cất ở góc nhà, đến tầm 25 tháng chạp ba tôi sẽ thay bát hương. “Cát cũ phải giữ lại chừng một nửa, không được đổ hết. Lớp cát mới đổ lên trên cho sạch hơn thôi”, ba vẫn thường dặn dò như vậy mỗi lần thay cát. Ba tôi bảo, đem đổ hết cát cũ thì không khác gì đổ đi bát hương. Ông nội tôi trước đây còn sống mỗi lần thay cát cũng vẫn thường căn dặn vậy.

Khi ba dọn ban thờ cũng là lúc mạ tôi đi quanh vườn cắt lá chuối chuẩn bị cho việc gói bánh. Lá chuối cắt xuống, phơi nắng tầm ba mươi phút là đủ để gói bánh. Năm nào lá phơi không được mạ tôi mới đốt rơm lên hơ. Mạ bảo: Làm như ri cho lá mềm lại, khi gói không bị bể. Lá chuối sau khi phơi tới, đem vào cắt bỏ tàu. Mạ chọn lá đẹp nhất để gói. Những miếng rách dùng để bịt hai đầu của đòn bánh tét. Tùy vào bánh gì để chia lá. Năm nào mạ tôi cũng gói bánh vào tối 27 tết. Với tôi, mạ là một chuyên gia gói bánh. Bà gói bánh rất tài và đặc biệt siêng. Mạ gói được tất cả các loại. Một năm khi có dịp kỵ giỗ, hay rằm nếu rảnh, mạ lại mua bột, ngâm nếp gói. Nhà tôi đông chị em, tài nghệ gói bánh của mạ tôi cũng truyền lại được cho các chị. Trước tết, chị và các cháu tập trung về, đêm ngồi quây quần gói bánh. Mấy chị phụ mạ gói, tôi ngồi buộc lạt. Bánh gói xong, sáng mạ dậy sớm, kê bếp rồi bắt nồi lên nấu. Nồi bánh được canh, chêm nước cẩn thận. Tầm 9 giờ tối hôm đó là có thể vớt bánh.

Những ngày trước Giao thừa, tiết trời lúc nào cũng đẹp, nắng nhẹ, trời se se lạnh. Những cung đường quê người qua kẻ lại. Tết bây giờ với tôi có thể không còn như hồi trước. Đôi lúc do tôi đã lớn, không còn mong áo mới, không đợi phong bao lì xì hay được nghỉ học như trước. Nhưng tôi vẫn thích cái không khí xôn xao, tất bật chuẩn bị của người quê. Thích cái cách mỗi sáng mùng một tết ra đường gặp nhau người ta đều chào: Chào chú/ bác/ anh/ chị/ cháu năm mới. Thích hình ảnh những đứa con đi làm ăn xa về quê đoàn tụ khi xuân đến. Hồi học xong đại học, tôi đi làm xa. Hai năm sống xa quê, có hai lần ngóng mong tết để về nhà. Đường về quê lúc nào cũng đẹp, nhưng những ngày cận tết đẹp đến nao lòng. Tôi vào Quảng Ngãi làm báo. Đó với đây thực ra cũng chẳng xa bao nhiêu. Ngồi xe Bắc - Nam tầm 5 tiếng đồng hồ là đến nơi. Nhưng, chừng đó cũng để những đứa con xa quê mong ngày về quê sum vầy khi tết đến. Trong năm tôi cũng có mấy bận bắt xe ra thăm nhà, nhưng cảm giác về quê đón tết vẫn có gì đó rất khác. Nôn nao. Rạo rực. Nó gây một sự háo hức như đứa con đi xa bao năm chưa được về nhà.

Trước phòng trọ tôi ở là một vườn mai. Cứ đến tháng cuối năm, khi chủ tỉa lá là mọi người ở xóm trọ biết rằng tết sắp đến. Vườn mai với tôi như chiếc đồng hồ để đo thời gian đầu - cuối năm. Ngày những búp mai nhú và hoa bắt đầu nở bói, cũng là lúc tôi khăn gói về quê đón tết. Chạy xe máy rong ruổi trên cung đường Quốc lộ 1A, có những đoạn tôi tìm rẽ vào các đường làng, đi như tìm một hương vị mới. Xe qua các làng xóm xứ người, ở đâu cũng đẹp, bình dị. Người làng cào rác, lá, phát quang đường xóm chuẩn bị đón tết. Những đống lá đốt khói bay lên, xộc vào mũi, mắt, cay cay, thơm thơm, đượm mùi khói quê nhà.

Tôi về làng khi ruộng đồng đã xong vụ, những tất bật của đồng áng được khép lại. Người làng thu dọn, chỉnh trang cho một cái tết sau một năm quần quật với đồng ruộng.



N.Đ.T   
(TCSH396/02-2022)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).