NGUYỄN ĐẮC THÀNH
Tết ở quê, người làng luôn tự túc mọi thứ. Giản đơn, bình dị, không khoa trương, nhưng luôn đem lại một không khí rất khác, ấm cúng, sum vầy.
Những khóm vạn thọ của ba tôi mỗi dịp tết đến
Chuẩn bị cho tết, không thể thiếu hoa hòe. Ba tôi năm nào cũng tự tay trồng vài chậu vạn thọ, cúc, lay ơn. Với kiểu người truyền thống như ông, những loài hoa đó luôn luôn đại diện cho hình ảnh của tết. Mà thực sự, lúc nào tôi thấy một khóm vạn thọ bung hoa, y rằng thấy không khí tết. Nơi tôi ở, nhiều người vẫn thích tự trồng hoa cho tết. Không nhiều, chỉ một vài chậu. Nhưng, gì thì gì phải có vạn thọ. Một loài hoa mặc định cho tết. Thiếu nó thấy tết mất đi ít nhiều. Cũng có thể nó đã gắn bó với người dân quê với những cái tết trong nghèo khó, để đến giờ dù có nhiều sự lựa chọn cho việc chưng hoa ngày tết, người ta vẫn thích trồng nó mỗi dịp xuân đến.
Tầm tháng cuối 9 Âm lịch, mạ tôi đi chợ mua chục con vịt cỏ về nuôi. Bầy vịt nuôi đến tết là lớn; cũng là lúc thời gian kéo dần đến cuối năm, mạ lại làm đất chuẩn bị cho vườn rau. Với bà, tết không thể thiếu rau. “Thịt thà nhiều có ít rau vào ăn cho đỡ ngán”, mạ vẫn hay lý giải vậy. Bà làm đất kỹ lưỡng, rải phân chuồng đã hoai mục rồi gieo hạt xuống. Lấy rơm ủ ấm cho hạt dễ nảy mầm. Tầm một tuần, cải đã ăn được. Xà lách, thì bà nhổ tỉa trồng thêm ở đám đất khác. Cải cứ hết luống này lại gieo luống khác. Loại cải nào cho củ thì để lớn. Cải trồng nhiều ăn không hết lại đem làm dưa. Vườn rau ăn kéo dài đến tháng 3.
Ở quê, người ta luôn có một sự chuẩn bị như vậy. Họ luôn chủ động để không bị phụ thuộc quá nhiều vào chợ đò. Dân quê chỉ mua mỗi bánh kẹo, mứt, hạt dưa vào dịp tết. Còn lại chủ yếu tự cung tự cấp. Nhà tôi ít khi mổ heo ăn tết, năm nào cũng chia phần với nhà khác. “Một đùi là đủ ăn tết và ra Giêng”, mạ nói. Thịt heo chia về, bà làm cẩn thận. Cái để làm mâm cúng, cái ngâm nước mắm. Món thịt heo ngâm nước mắm ăn với rau cải, xà lách luôn cho cảm giác vừa miệng, không ngấy. Có thể tôi là một đứa con của làng nên những ý niệm về quê, về sự bình dị vẫn bám lấy. Tôi rất thích cái cách chuẩn bị tết của người quê, không cầu kỳ, bày vẽ nhưng nó đủ ấm cúng, đủ xôn xao, đủ không khí. Rau cải đã gieo lên xanh trước đó nửa tháng. Heo, gà vịt nuôi vừa kịp lớn. Nếp gói bánh, nấu xôi đã phơi khô, cất trữ từ vụ hè thu. Nhà nào có được buồng chuối, ít trái cây quanh nhà thì coi như tết toàn cây nhà lá vườn. Tết ở quê, toàn quà của vườn, của nhà nên rất đậm vị. Cái cách người dân san sẻ cho nhau những tàu lá chuối để gói bánh, dù không lớn nhưng nó mang lại một sự gần gũi, thân thương.
Khi thời gian dần trôi về cuối tháng 11 Âm lịch, bản tin dự báo thời tiết nắng ráo kéo dài, ba tôi lại nhắc nhở đi đào cát trắng về đãi, phơi khô để cuối năm còn thay bát hương gia tiên. Mấy thằng trong xóm lại rủ nhau ra rú cát cách đó không xa, đào sâu xuống lấy lớp sạch nhất rồi chở về. Cát đãi qua nhiều nước, đem phơi chừng hai nắng, trắng phau. Cát khô, đem bỏ bao cất ở góc nhà, đến tầm 25 tháng chạp ba tôi sẽ thay bát hương. “Cát cũ phải giữ lại chừng một nửa, không được đổ hết. Lớp cát mới đổ lên trên cho sạch hơn thôi”, ba vẫn thường dặn dò như vậy mỗi lần thay cát. Ba tôi bảo, đem đổ hết cát cũ thì không khác gì đổ đi bát hương. Ông nội tôi trước đây còn sống mỗi lần thay cát cũng vẫn thường căn dặn vậy.
Khi ba dọn ban thờ cũng là lúc mạ tôi đi quanh vườn cắt lá chuối chuẩn bị cho việc gói bánh. Lá chuối cắt xuống, phơi nắng tầm ba mươi phút là đủ để gói bánh. Năm nào lá phơi không được mạ tôi mới đốt rơm lên hơ. Mạ bảo: Làm như ri cho lá mềm lại, khi gói không bị bể. Lá chuối sau khi phơi tới, đem vào cắt bỏ tàu. Mạ chọn lá đẹp nhất để gói. Những miếng rách dùng để bịt hai đầu của đòn bánh tét. Tùy vào bánh gì để chia lá. Năm nào mạ tôi cũng gói bánh vào tối 27 tết. Với tôi, mạ là một chuyên gia gói bánh. Bà gói bánh rất tài và đặc biệt siêng. Mạ gói được tất cả các loại. Một năm khi có dịp kỵ giỗ, hay rằm nếu rảnh, mạ lại mua bột, ngâm nếp gói. Nhà tôi đông chị em, tài nghệ gói bánh của mạ tôi cũng truyền lại được cho các chị. Trước tết, chị và các cháu tập trung về, đêm ngồi quây quần gói bánh. Mấy chị phụ mạ gói, tôi ngồi buộc lạt. Bánh gói xong, sáng mạ dậy sớm, kê bếp rồi bắt nồi lên nấu. Nồi bánh được canh, chêm nước cẩn thận. Tầm 9 giờ tối hôm đó là có thể vớt bánh.
Những ngày trước Giao thừa, tiết trời lúc nào cũng đẹp, nắng nhẹ, trời se se lạnh. Những cung đường quê người qua kẻ lại. Tết bây giờ với tôi có thể không còn như hồi trước. Đôi lúc do tôi đã lớn, không còn mong áo mới, không đợi phong bao lì xì hay được nghỉ học như trước. Nhưng tôi vẫn thích cái không khí xôn xao, tất bật chuẩn bị của người quê. Thích cái cách mỗi sáng mùng một tết ra đường gặp nhau người ta đều chào: Chào chú/ bác/ anh/ chị/ cháu năm mới. Thích hình ảnh những đứa con đi làm ăn xa về quê đoàn tụ khi xuân đến. Hồi học xong đại học, tôi đi làm xa. Hai năm sống xa quê, có hai lần ngóng mong tết để về nhà. Đường về quê lúc nào cũng đẹp, nhưng những ngày cận tết đẹp đến nao lòng. Tôi vào Quảng Ngãi làm báo. Đó với đây thực ra cũng chẳng xa bao nhiêu. Ngồi xe Bắc - Nam tầm 5 tiếng đồng hồ là đến nơi. Nhưng, chừng đó cũng để những đứa con xa quê mong ngày về quê sum vầy khi tết đến. Trong năm tôi cũng có mấy bận bắt xe ra thăm nhà, nhưng cảm giác về quê đón tết vẫn có gì đó rất khác. Nôn nao. Rạo rực. Nó gây một sự háo hức như đứa con đi xa bao năm chưa được về nhà.
Trước phòng trọ tôi ở là một vườn mai. Cứ đến tháng cuối năm, khi chủ tỉa lá là mọi người ở xóm trọ biết rằng tết sắp đến. Vườn mai với tôi như chiếc đồng hồ để đo thời gian đầu - cuối năm. Ngày những búp mai nhú và hoa bắt đầu nở bói, cũng là lúc tôi khăn gói về quê đón tết. Chạy xe máy rong ruổi trên cung đường Quốc lộ 1A, có những đoạn tôi tìm rẽ vào các đường làng, đi như tìm một hương vị mới. Xe qua các làng xóm xứ người, ở đâu cũng đẹp, bình dị. Người làng cào rác, lá, phát quang đường xóm chuẩn bị đón tết. Những đống lá đốt khói bay lên, xộc vào mũi, mắt, cay cay, thơm thơm, đượm mùi khói quê nhà.
Tôi về làng khi ruộng đồng đã xong vụ, những tất bật của đồng áng được khép lại. Người làng thu dọn, chỉnh trang cho một cái tết sau một năm quần quật với đồng ruộng.
N.Đ.T
(TCSH396/02-2022)
Thông reo hồn chí sĩ
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG - TRẦN VĂN DŨNG
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ở nghĩa trang Gò Dưa, quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh có ngôi mộ của ông Đinh Văn Dõng, bia mộ đề nguyên quán: Nam Trung - Thừa Thiên-Huế. Ông Đinh văn Dõng là thân phụ của họa sĩ Đinh Cường. Té ra Đinh Cường là người Sài Gòn, gốc Huế.
Làng phong Quy Hòa (TP.Quy Nhơn, Bình Định) nằm lẩn khuất sau một con đèo quanh co ở phía nam thành phố. Nơi này, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã sống những ngày cuối đời, chống chọi với bệnh tật.
LGT: 10 năm trước, mùa đông, như một linh cảm diệu kỳ về sự giải thoát nỗi trầm luân, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (lúc ấy là Trưởng Ban biên tập Tạp chí Sông Hương đã viết nên “câu chuyện thiên đường” đầy ám ảnh: “Mùa đông/ Mưa mịt mùng ướt chiếc áo quan/ Co ro trong chiếc áo quan lạnh giá/ Tôi muốn đội mồ lên ngồi quanh quẩn bên em…”. Anh đã ngủ quên vĩnh viễn sau một đêm đặc dày bóng tối rất đỗi bình thường.
Lịch sử xã hội VN trong khoảng thời gian 1954 - 1975 đã ghi dấu sự hình thành cộng đồng học sinh miền Nam tại miền Bắc với những vai trò và đóng góp nhất định cho đất nước trước và sau năm 1975. Tuy nhiên, có rất ít công trình nghiên cứu về thế hệ học sinh đặc biệt này.
Một lần vào kho đạo cụ của Hãng phim truyện VN, tôi kéo thử chiếc xe kéo tay (thường gọi là xe tay) được phục chế nguyên bản để làm phim. Chỉ một đoạn tôi đã toát mồ hôi vì nó quá nặng, và chợt ngẫm đến thân phận những người phu xe.
Nếu viết về phòng trà Tự Do mà chỉ nói đến Khánh Ly và Lệ Thu thì đúng nhưng chưa đủ, bởi ở đây còn những giọng ca trẻ có khán giả riêng của mình.
“Lò” Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức đã đào tạo nhiều nữ ca sĩ cho phòng trà Sài Gòn lúc ấy. Đặc biệt, như để tạo dấu ấn, tên của các nữ ca sĩ ấy đều bắt đầu bằng chữ Phương (chỉ trừ nữ ca sĩ Hoàng Oanh).
Tình bạn giữa Nam Cao và Tô Hoài đã gắn bó từ thuở mới bước chân vào làng văn và còn gắn bó lâu dài mãi về sau này.
“Những giờ phút huy hoàng của lịch sử dân tộc đã làm nên giá trị các tác phẩm báo chí và văn chương của tôi,” nhà báo-nhà văn Trần Mai Hạnh đã đúc kết như vậy trong buổi chuyện trò thân tình với phóng viên VietnamPlus ngay trước thềm kỷ niệm 71 năm Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2016).
KỶ NIỆM 71 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG 8 VÀ QUỐC KHÁNH 2/9
LÂM QUANG MINH
(Về Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế trong cách mạng tháng 8/1945 ở Thừa Thiên Huế)
Backe backe Kuchen
Der Bäcker hat gerufen
Wer will backen guten Kuchen…
(đồng dao trẻ con của Đức, có thể mở nghe trong youtube, với tựa đề "Backe, backe Kuchen")
PHI TÂN
Trong một lần đi tác nghiệp ở xã Điền Môn, huyện Phong Điền (tỉnh Thừa Thiên Huế), qua câu chuyện hàn huyên với anh Phạm Do - Chủ tịch UBND xã Điền Môn mới biết anh là cựu lính Hải quân từng ở quần đảo Trường Sa.
LÊ VĂN KINH
Không có gì phải đợi năm hết tết đến mới nói chuyện uống trà, mà riêng tôi từ hàng chục năm qua thì trà là thức uống mỗi sáng.
NHẤT LÂM
Năm 1936, chàng thanh niên Nguyễn Hoàng cùng với người bạn thân đồng hương huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị chiếm thủ khoa và á khoa tú tài Tây tại Quốc Học Huế.
HOÀNG ANH
Ngày 1 tháng 9 năm 1939 Phát xít Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Tiếp theo đó chính phủ bình dân Pháp bị đổ, chính phủ phản động lên cầm quyền.
NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
(Tìm hiểu một số trước tác của Ni sư Thích Nữ Trí Hải)
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Thời học sinh tôi rất phục “Quái kiệt” Trần Văn Trạch và thuộc những bài ông hát giúp vui trong các cuộc quảng cáo Xổ số kiết thiết quốc gia.
KỶ NIỆM NGÀY BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM 21/6
Ngày 18 tháng 9 năm 2015, được sự nhất trí của lãnh đạo tỉnh, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 70 năm thành lập. Đây là một hoạt động có ý nghĩa lịch sử và cũng vô cùng giàu chất nhân văn, nhằm ôn lại những trang sử vẻ vang của một vùng đất giàu văn hóa - về một trung tâm văn hóa - văn học nghệ thuật tiêu biểu của nước nhà.