Người khiếu nại

16:45 11/09/2008
ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.


Ông già càu nhàu:
- Tao căm ghét cái hệ thống đo lường này. Toàn trò lừa đảo!
John Peters lắng nghe những lời phàn nàn của bố với nụ cười độ lượng và tiếp tục ngắm bộ sưu tập tem của mình.
- Đây, mày hãy xem cái tuýp kem cạo râu này - ông già nói tiếp - Trước kia trọng lượng được tính bằng aosơ còn bây giờ thì bằng gram và giá cả tất nhiên là đã tăng vọt. Tao sẽ khiếu nại với hãng sản xuất cho mà xem.
John muốn chỉ cho ông già thấy rằng tuýp kem này có dung tích lớn hơn tuýp kem trước kia nhưng chàng đã nghĩ lại. Một khi ông già đã quyết chí khiếu nại thì đố ai can ngăn được. Những chuyện khiếu nại của ông già đã biến thành một thứ gần như là truyền thống của gia đình. Ông già từng viết những bức thư tràng giang đại hải đầy phẫn nộ gửi cho đủ loại chủ xí nghiệp - từ nhà máy làm bánh kẹo cho tới cơ sở sản xuất thuốc chống bọ chét ở mèo - nếu như sản phẩm không đáp ứng được những chuẩn mực quá đáng đến mức quái đản do chính ông đặt ra.
- À, suýt nữa thì con quên mất bố ạ - John nói với hy vọng lái ông già sang câu chuyện khác - có bưu kiện gửi cho bố đấy. Nó nằm ở phòng ngoài. Người ta đem đến khi bố đi vắng.
Ông già phấn khởi lao ra khỏi phòng, tí nữa thì đâm sầm vào đứa cháu đang đi vào.
- Thế nào hở bố, ngày mai bố có ra chỗ bán đấu giá tem không? - Chú bé hỏi John.
- Chà, bố rất muốn xem những bộ tem chưa đục lỗ.
- Tem chưa đục lỗ nghĩa là thế nào hở bố?
- Con có hiểu không, đó là khi in, người ta quên đục những cái lỗ xinh xinh giữa các con tem.
- Thế bố muốn mua những bộ tem ấy à?
- Không, mua làm gì... - John phá lên cười - Do cái lỗi vặt ấy của nhà in mà chúng có giá đắt khủng khiếp, hàng nghìn đồng bảng Anh đấy. Chúng ta không đủ tiền để mua những bộ tem ấy đâu, con giai cưng của bố ạ.
Trong khi ấy, ông già hý hửng trở lại phòng, một tay xách hộp bánh kem nhân anh đào, còn tay kia thì cầm ổ bánh mì trắng trộn hạt hồi.
- Hãy xem này, xưởng bánh đã gửi cho tao cái gì đây - ông già đắc thắng reo lên - Mày có nhớ cái bánh nướng cứng quèo quẹo không? Tao đã khiếu nại với công ty và người ta đã đổi cho tao cái bánh khác.
- Tuy nhiên bố đã gặp may đấy - John nói - đáng nhẽ bố phải trả lại cái bánh nướng khô cứng còn nguyên vẹn thì đằng này bố thoạt tiên đã chén hết nhẵn bánh rồi mới gửi trả lại cái hộp không với bức thư khiếu nại về nhân bánh!
- Tao thèm ăn bánh quá - ông già đáp - Ở thời buổi ngày nay tiền lương hưu chả được bao nhiêu. Còn bây giờ thì tao về phòng viết thư khiếu nại về một trò lếu láo của bưu điện đây. Tao sẽ mắng cho nó một mẻ.
Chẳng mấy chốc bức thư đầy nhiệt huyết đã được viết xong và ông già ra ngoài phố để bỏ phong bì vào thùng thư.
Khi ông quay về thì thấy John đang ngồi uống trà.
- Bố có muốn làm một chén trà không - John cất tiếng mời.
- Rất vui lòng. Hơn nữa uống trà với bánh kem nhân anh đào thì còn gì bằng.
- Con không hiểu vì lý do gì mà bố lại đi gửi thư khiếu nại vào lúc thời tiết giá lạnh như thế này? Có việc gì mà khẩn cấp như vậy?
- Con ạ, không thể nào tha thứ cho những chuyện bố láo như thế được. Tao phải thông báo cho tay chủ sự bưu vụ biết rằng tại phòng bưu điện ở chỗ hắn, người ta đang bán đồ phế phẩm. Mày có hiểu không, sáng nay họ nhét cho tao hai tá tem không đục lỗ. Và tao phải thân chinh lấy kéo cắt rời từng con tem một. Kìa, mày làm sao mà thừ mặt ra thế hả con?
LÊ SƠN dịch

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.


  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.