ĐÀI LÂN
Kỷ niệm 32 năm ngày mất của giáo sư Tôn Thất Chiêm Tế
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến hào hùng và thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 đã thúc giục, lôi cuốn nhiều lớp người đặc biệt là thanh niên, trí thức trong toàn quốc, thoát ly tham gia cách mạng.
Chân dung Giáo sư Tôn Thất Chiêm Tế
Bấy giờ Tôn Thất Chiêm Tế mặc dù đang giảng dạy ở trường Quốc học Khải Định, Huế - một trường rất danh tiếng dành cho nam sinh, đã quyết tâm “xếp bút nghiên” hăng hái đi theo kháng chiến. Chiêm Tế và người anh cả là Tôn Thất Chiêm Sử cùng một số thanh niên yêu nước khác ở Huế đã nhanh chóng thoát ly, lên đường ra chiến khu IV tham gia kháng chiến chống Pháp cứu nước.
Đây là một bước ngoặt trọng đại có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời và sự nghiệp của Chiêm Tế. Ra tới chiến khu IV, anh được biên chế làm cán bộ thanh tra, thuộc Sở Lao động Liên khu IV (Thanh Chương, Nghệ An). Còn người anh, Chiêm Sử, được trao trọng trách làm thẩm phán Tòa án cách mạng Liên khu IV. Bữa ăn những khoai cùng sắn, thỉnh thoảng mới có bát cơm trắng không độn, đi bộ đường trường; ban ngày thường lo giúp dân, tối về các anh cùng chung cây đèn dầu bàn bạc công việc; gian khổ nhưng vui, vất vả nhưng hạnh phúc vì được sống và làm việc cùng anh em, đồng chí trong không khí tự do, được cống hiến, hy sinh vì dân vì nước.
![]() |
Tôn Thất Chiêm Tế (Nguyễn Chiêm Tế) sinh năm 1920 trong một gia đình nho học, dòng dõi Hoàng tộc tại thôn Vỹ Dạ, ngoại ô kinh thành Huế. Đây là một thôn làng thơ mộng với những “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” duyên dáng, soi bóng bên bờ tả Hương giang êm đềm, trong vắt. Vỹ Dạ nổi tiếng là mảnh đất khoa bảng, địa linh nhân kiệt. Đây là cái nôi đã sinh ra nhiều cậu ấm, cô chiêu, nhiều cô tú, cậu tú từng theo học những trường Quốc học danh giá như Khải Định và Đồng Khánh về sau đã đỗ đạt cao. Vào nửa sau những năm 20 của thế kỷ trước, nhiều người trong số họ đã cùng cha ông tích cực tham gia các phong trào yêu nước như ở thời kỳ đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, đám tang cụ Phan Chu Trinh. Đặc biệt là ở giai đoạn tiền Cách mạng tháng Tám, thanh niên trí thức Huế đã có nhiều đóng góp cho sự thành công trong việc giành chính quyền ở Huế.
Cụ đồ nho Công Tôn Hoài Tính (mà vua Bảo Đại gọi bằng ông họ) chính là thân phụ của Tôn Thất Chiêm Tế. Cụ là người tiết tháo và giàu lòng yêu nước, rất nhiệt tâm ủng hộ các phong trào đấu tranh của nhân dân Huế, đặc biệt là đối với sự kiện Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ chính cụ là người đã động viên anh em Chiêm Sử và Chiêm Tế thoát ly ra chiến khu. Thừa hưởng truyền thống hiếu học của dòng tộc, với tư chất thông minh, tài hoa nên học xong tiểu học ở trường làng, Chiêm Tế được vào thẳng học ban Thành chung trường Quốc học Khải Định. Với kết quả xuất sắc, sau ba năm anh lại được chuyển thẳng lên học bậc tú tài. Và chỉ hai năm sau (1940) Chiêm Tế đã lấy bằng tú tài toàn phần Văn khoa. Năm sau, cậu tú thi đậu vào khoa Luật, trường Đại học Đông Dương Hà Nội (một phân hiệu của trường Đại học Paris). Việc sinh sống và học hành xa nhà rất tốn kém, nhưng may bấy giờ, người anh cả Chiêm Sử đang giữ chức Thừa phái trong Bộ Nội vụ của triều đình Huế, đã chu cấp cho Chiêm Tế ăn học. Năm 1943, anh tốt nghiệp loại ưu, lấy được bằng cử nhân Luật khoa. Cậu cử nhân Luật mới 23 tuổi đầy năng lực, lại xuất thân Hoàng tộc nên vừa trở về Huế, Chiêm Tế đã được chính phủ bảo hộ bổ nhiệm ngay làm Kiểm sát viên, Sở Lao động Trung kỳ. Nhưng sớm chán cảnh vào luồn ra cúi chốn quan trường, cảm nhận nỗi tủi nhục của một công chức mà đất nước bị đô hộ, nên cuối năm 1944 anh xin chuyển về dạy tại trường Quốc học Khải Định, nơi anh đã từng theo học trước đây.
Ở môi trường mới, với vai trò là một người thầy, anh được thả hồn trong những áng văn thơ yêu nước, trong những trang sử vàng của dân tộc, Chiêm Tế đã học hỏi được nhiều điều từ đồng nghiệp và học trò. Phần đông trong số họ là những trí thức nhiệt thành yêu nước. Nhiều trang sử đẹp về truyền thống yêu nước đã được viết nên từ mái trường này. Đặng Thai Mai, một thầy giáo của trường, đã trở thành một tấm gương sáng về lòng yêu nước. Năm 1926, khi đang đứng trên bục giảng, thầy đã bị mật thám Pháp xông vào bắt và giam giữ hơn một năm trong nhà lao Phủ Doãn của kinh thành, với tội danh là người cầm đầu phong trào học sinh trong vụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.
Chiêm Tế rất cảm phục tấm gương của bậc tiền bối. Từ sau Nhật đảo chính Pháp, phong trào kháng Nhật cứu nước được Việt Minh phát động sâu rộng trong quần chúng. Nhiều thầy trò trường Quốc học (Khải Định) được cán bộ Việt Minh bí mật tuyên truyền, giác ngộ trong đó có Chiêm Tế. Những ngày giữa tháng 8/1945, không khí cách mạng ở Huế lại càng sôi sục. Bất chấp hiểm nguy, Chiêm Tế đã hăng hái cùng nhiều trí thức xuống đường hòa trong dòng người tham gia lấy chữ ký ủng hộ Việt Minh, ủng hộ cách mạng, yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị. Ngày 23/8/1945, Chiêm Tế đã có mặt trong đội ngũ thanh niên tự vệ tại buổi mít tinh trọng thể của nhân dân Huế chứng kiến sự kiện lịch sử lớn của dân tộc, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, trao ấn kiếm cho cách mạng, kết thúc lịch sử của chế độ phong kiến Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, thầy và trò trường Quốc học lại háo hức bước vào năm học đầu tiên trong không khí tự do, độc lập. Nhưng chỉ một năm sau, vận nước lại lâm nguy. Cả dân tộc lại bước vào giai đoạn đầy cam go, gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp. Và hai anh em Chiêm Tế, Chiêm Sử lên đường theo cách mạng từ đấy.
Sau một năm công tác ở Sở Lao động liên khu IV, Chiêm Tế được một cán bộ Việt Minh giới thiệu vào Đảng Xã hội. Đây là chính đảng của trí thức yêu nước do Mặt trận Việt Minh và Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức nhằm tập hợp, lôi kéo tầng lớp trí thức trong và ngoài nước ủng hộ cách mạng. Việc ông gia nhập Đảng Xã hội thật có ý nghĩa đối với giới trí thức bấy giờ. Vì ông xuất thân dòng dõi hoàng tộc, một trí thức tài năng dạy ở một trường nổi tiếng giữa kinh thành đã dám rời bỏ gia đình, cha già, vợ trẻ, con thơ với cuộc sống êm ấm, an nhàn mà thoát ly theo kháng chiến. Năm 1949, cấp trên điều ông từ Liên khu IV về chiến khu Việt Bắc với cương vị phó Trưởng phòng Pháp chế, Bộ Tư pháp. Giàu năng lực, lại cần mẫn và giỏi tiếng Pháp nên công việc hiệu quả, ông được anh em, đồng chí rất quý trọng.
Đầu năm 1951, ông cùng một số cán bộ trong ngành được trên cử về công tác ở Liên khu IV để thanh tra nhân sự. Thời điểm này Bộ Giáo dục đang chuẩn bị thành lập bộ khung cho trường Sư phạm Cao cấp ở vùng Thanh - Nghệ. Biết ông vốn là một nhà giáo tài năng nên cấp trên lại điều ông từ Bộ Tư pháp về giảng dạy ở trường này. Đội ngũ những nhà giáo đầu tiên đặt nền móng xây dựng trường Sư phạm Cao cấp (sau đổi là trường Dự bị Đại học) toàn là những trí thức lỗi lạc, danh tiếng như Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, Đào Duy Anh, Trần Đình Gián v.v. Được làm việc với những bậc tiền bối trong học thuật, ông rất vui mừng, phấn khởi và tự hào. Là cán bộ trẻ nhất mới 31 tuổi, với ông, họ thực sự là những bậc thầy.
Vùng Hậu Hiền thuộc Nông Cống, Thanh Hóa chính là cái nôi đã nuôi dưỡng trường Sư phạm Cao cấp trong suốt 3 năm đầu (1951-1954) từ khi thành lập, hòa bình lập lại, trường chuyển về thủ đô Hà Nội.
Nghị lực, yêu nghề lại chịu khó học hỏi và được các bậc đàn anh dìu dắt, giúp đỡ, ông đã trưởng thành nhanh chóng trong chuyên môn; đồng nghiệp và học trò yêu mến, tin cậy. Hòa bình lập lại, trường chuyển về Lê Thánh Tông, Hà Nội, ông lại sát cánh cùng đồng nghiệp từ chiến khu IV trở về. Từ năm thứ 2 và thứ 3 khóa II (1954-1956) học sinh của trường bắt đầu được đào tạo ở Hà Nội. Miền Bắc được giải phóng, gia đình ông được đoàn tụ, chấm dứt những tháng năm ly tán, vợ Nam chồng Bắc. Đây là nguồn động viên lớn để ông yên tâm công tác. Chỉ vương vấn một điều, năm 1951, cụ thân sinh qua đời nhưng ông không được gặp mặt cha lúc lâm chung.
Điều kiện sinh sống và làm việc của thầy trò ở Hà Nội được cải thiện rất nhiều. Khóa II của trường và cũng là khóa đầu tiên được đào tạo ở Hà Nội đã sản sinh ra rất nhiều những “cây đa, cây đề” mà về sau, họ là những trụ cột, chuyên gia đầu ngành có đóng góp to lớn cho công tác nghiên cứu và giảng dạy ở các khoa Ngữ văn, Lịch sử của các trường ĐH Sư phạm và ĐH Tổng hợp Hà Nội. Giáo sư Đặng Thanh Lê, GS. Đặng Đức An, GS. Phan Huy Lê, GS. Trần Quốc Vượng, GS. Đinh Xuân Lâm v.v… là những bậc tài danh của khóa II. Năm 1957, trường ĐHSP và ĐHTH tách riêng. Nhưng mãi đến năm 1959, khoa Lịch sử của hai trường này mới chính thức phân đôi. Ông bắt đầu được giữ trọng trách là Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử thế giới của khoa Lịch sử từ đấy. Gần 40 tuổi đời và gần 10 năm tuổi nghề, ông trở thành một cán bộ giảng dạy đầy uy tín và năng lực, một chuyên gia sáng giá nhất trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử Cổ trung đại thế giới của khoa Lịch sử trường ĐHSP Hà Nội. Ông tận tụy xây dựng, vun đắp cho sự trưởng thành, vững mạnh của bộ môn. Nhiều học trò được ông đào tạo, bồi dưỡng sau đã trở thành những cán bộ tài năng của khoa, của nhiều trường đại học và các viện nghiên cứu. Nghiêm Đình Vỳ, Trần Bá Đệ, Đặng Quang Minh, Trần Thị Vinh, Lại Bích Ngọc, Đặng Thanh Toán, Lương Thị Thoa v.v… là những cán bộ giảng dạy đã được ông trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng. Và họ đang là những thế hệ hậu bối xứng đáng kế nghiệp thầy. Vừa chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ, ông vừa say mê nghiên cứu. Rồi những năm tháng chống Mỹ khốc liệt đầy khó khăn thầy và trò đều phải đi sơ tán; khi lên Thái Nguyên, khi về Hưng Yên, rồi lại xuống Hà Tây…, cơm không đủ no, học trong bom rơi, đạn lạc. Vợ con ông phải sơ tán theo cơ quan, mỗi người một ngả. Vóc dáng thư sinh mảnh mai, ông lại chớm mắc bệnh tiểu đường nhưng nét mặt luôn rạng ngời khi đứng trên bục giảng. Giọng Huế nhẹ nhàng, cuốn hút, ấm áp, kiến thức uyên thâm cho nên những giờ giảng dạy của ông bao giờ cũng đầy hấp dẫn đối với học trò. Thời chiến, điều kiện nghiên cứu, in ấn và công bố công trình vô cùng khó khăn; ăn ở thiếu thốn, đi lại vất vả và không an toàn, thế nhưng trong vòng 25 năm, từ khi trường về Hà Nội, ông đã cho công bố gần 30 công trình có giá trị. Ông để lại cho hậu thế nhiều tài liệu quý giá, trong đó Bộ Lịch sử thế giới cổ đại (phương Đông và phương Tây) xuất bản năm 1970 được coi là bộ giáo trình hoàn thiện đầu tiên về lĩnh vực này. Ông là một người đi tiên phong khai phá việc nghiên cứu về vấn đề Phương thức sản xuất châu Á. Vấn đề này hiện nay đang được các thế hệ học trò tiếp tục nghiên cứu. Ông rất chú trọng đến phương pháp nhận thức của đồng nghiệp và học trò, của các nhà nghiên cứu và nhà giáo về vai trò, chức năng của bộ môn Lịch sử trong đời sống xã hội và trong nhà trường. Có lẽ, các công trình “Lênin bàn về vai trò của các dân tộc phương Đông” (1977) và “Nguồn gốc nền văn minh cổ ở Đông nam Á” (1977) là những công trình cuối cùng mà ông để lại cho đồng nghiệp và cho học trò.
Năm 1972, sức khỏe của ông lại có vấn đề. Ông được Nhà nước cho sang Quế Lâm, Trung Quốc chữa trị 6 tháng theo đông y. Hai năm sau bệnh lại tái phát, ông lại được sang Ba Lan 3 tháng chữa trị theo tây y.
Từ sau năm 1975, công việc đào tạo của khoa và của trường ngày càng phát triển, mở rộng. Bộ môn lịch sử thế giới Cổ trung đại lúc này mới có 5 người trong đó có 2 cán bộ trẻ. Vì thế phần việc mà ông phải đảm nhiệm rất lớn. Mà căn bệnh tiểu đường lại là bệnh nan y không có thuốc đặc trị cho nên vào những năm 1979 - 1980 sức khỏe ông yếu dần, phải thường xuyên nằm điều trị tại Bệnh viện Việt Xô. Đầu năm 1980, Nhà nước có quyết định phong học hàm Giáo sư cho nhiều cán bộ giảng dạy ở các trường đại học trong đó có ông. Bộ trưởng Bộ Giáo dục bấy giờ là bà Nguyễn Thị Bình cùng một số đại biểu khác đã trực tiếp đến bệnh viện thăm hỏi và trân trọng trao bằng chứng nhận học hàm Giáo sư cho ông. Nhưng chỉ vài tháng sau, ngày 08/07/1980, Giáo sư trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 60 tuổi. Các thầy thuốc và gia đình đã tận tâm cứu chữa nhưng bệnh trọng, Giáo sư vĩnh viễn ra đi để lại nỗi tiếc thương vô hạn cho gia đình, đồng nghiệp và học trò. Giáo sư đã về cõi vĩnh hằng nhưng hình ảnh một người thầy tận tụy, uyên thâm và tài hoa, một trong những người đặt nền móng xây dựng khoa Lịch sử và trường ĐHSP Hà Nội thì sống mãi trong tâm tưởng và sự nghiệp của lớp lớp học trò hậu bối. Đã sắp tới ngày giỗ thứ 32 của Giáo sư. Nơi suối vàng, chắc ông thanh thản vì không những đã đào tạo được nhiều thế hệ học trò giỏi mà con cháu của mình trong hơn 30 năm qua cũng rất thành đạt. Anh Nguyễn Viễn Thọ, con trai ông, một Giáo sư, Tiến sĩ KH, Nhà giáo Nhân dân, nguyên là Giám đốc ĐH Huế. Còn cháu đích tôn Nguyễn Phúc Dương mới ngoài 30 tuổi đã là một PGS. TS, Phó Viện trưởng Viện Vật liệu điện tử của trường ĐH Bách Khoa Hà Nội.
Xa xôi, xin gửi về làng Vỹ Dạ, nơi quê hương và cũng gần nơi an nghỉ của Giáo sư một nén nhang thơm tri ân tình sâu nghĩa nặng.
Hà Nội, ngày 03/06/2012
Đ.L
(SH281/7-12)
PHẠM THỊ ANH NGA
Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.
LÊ HUỲNH LÂM
Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.
LÊ VĂN LÂN
Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.
NGUYỄN MINH VỸ
Hồi ký
Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.
LƯƠNG AN
Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.
(SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.
LÊ VĂN LÂN
Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.
PHAN THUẬN AN
"Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
"Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
"Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.
LÊ TIẾN DŨNG
Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.
ĐOÀN XANH
Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.
Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)
Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi
Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.
Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn” - hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
VÕ SƠN TRUNG
Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).
Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.