Ngôn ngữ của những âm thanh

16:00 04/02/2010
HOÀI NGUYÊNTiếng tiêu trầm của nỗi cô đơn...

Thổi khèn bè - Ảnh: hue.vnn.vn

Đêm ở đây, phía Tây đỉnh Trường Sơn, gió đi qua bản nghe như có một đoàn tàu lửa đang chạy trên chiếc cầu sắt, gió như há hốc miệng ra gào rít dọa dẫm, chực xông vào mọi nhà. Gió thổi ào ào qua từng cơn rồi bất thình lình cuồn cuộn, đập phành phạch vào các vách liếp, cửa nhà. Những đêm như thế, ngoài trời lạnh như cắt da, lạnh buốt tận xương.

Đếm ấy, tôi ngủ lại trong một ngôi nhà sàn nhỏ của người dân tộc vùng Đac Chưng. Chủ nhân là một người đàn bà rất khó đoán tuổi là 40 hay 50... ít nói, trầm lặng, chỉ có điều dễ thấy là sự cô đơn. Đêm đã khuya mà tôi vẫn thấy người đàn bà đó ngồi bên bếp lửa với chiếc xa quay sợi. Bếp lửa ở trên đỉnh cao Trường Sơn vừa là ánh sáng, vừa là lò sưởi, cứ bập bùng tí tách suốt trong đêm, hòa cùng với tiếng xa quay tạch rè đơn điệu. Nhìn người đàn bà lặng lẽ, âm thầm, mắt như có nhìn mà chẳng nhìn ai, cũng chẳng nhìn một vật gì. Cần cù, kiên nhẫn, bà vẫn ngồi nguyên một chỗ với tư thế đó không biết đã bao nhiêu năm tháng rồi.

Đang triền miên để chờ đợi hơi ấm của mình tỏa ra trong cái chăn mỏng dính tìm tới giấc ngủ, chợt nghe một tiếng tiêu trầm ngân lên, vẳng lại. Ồ, đúng tiếng tiêu trầm từ đâu đến. Trầm lắm, hầu như tôi chưa được nghe bao giờ. Tôi đã được qua lại đây nhiều lần, tôi đã từng nghe tiếng sáo 5 cung bậc vi vu trên nóc nhà khi gió đi qua. Tôi gọi là sáo gió. Tôi cũng đã được nghe những chiếc đàn âm thanh bằng gỗ hoặc bằng đá được đẽo gọt ngắn dài khác nhau, treo trong một vòng mây uốn tròn ở ngoài góc nhà canh rẫy. Đây là đàn gõ âm thanh, chuyện trò của những đôi trai gái giữa nương rẫy này với nương rẫy nọ. Cũng cây đàn gõ đó, tự nó khi gió đung đưa, thanh gõ sẽ gõ vào, tạo nên những âm thanh để xua đuổi chim chóc, thú rừng đến quậy phá nương rẫy và cũng là tiếng nhạc vui xua tan sự tẻ buồn trong những ngày vắng vẻ, trong những đêm mưa lạnh giữa núi rừng.

Nhưng tiếng tiêu trầm này thì lần đầu tiên tôi mới được nghe. Ngưng một lát, tiếng tiêu lại ngân lên. Không chịu được nữa, tôi chui đầu ra khỏi chăn và xác định là âm thanh từ bếp lửa.

Người đàn bà đã ngưng quay xa, bà ta đang để môi lên chiếc tiêu dài, một chiếc tiêu dài quá khổ. Có lẽ vì cái độ dài đó mà các âm thanh trầm kéo dài, chuyển từ độ trầm này xuống độ trầm khác nghe rền đến tận cổ họng và lồng ngực. Tiếng tiêu trầm quyện chặt chung quanh người đàn bà với những nỗi niềm khắc khổ của đời bà chăng? Bỗng lòng tôi cũng rung theo cái buồn, cái nhớ tổ quốc quê hương vừa đây cũng thức dậy đi theo cái khúc điệu trầm lắng đó. Tôi tung chăn ngồi hẳn dậy mặc cả rét lạnh, vì như đang có một sự đồng cảm nào đó giữa âm thanh và tôi hoặc vì tiếng trầm da diết không sao ngủ được. Tôi quan sát kĩ hơn tư thế ngồi thổi tiêu của người đàn bà. Hai chân bà duỗi thẳng, khép lại nhau, nửa người trên ngả nghiêng theo độ chếch của vai bà. Hai tay bà duỗi thẳng, các ngón tay như cố níu lấy các lổ cung bậc của chiếc tiêu, đầu hơi ngửa ra để cho môi bà đặt đúng vào nơi thổi. Hình như chiếc tiêu trầm này làm ra chỉ riêng cho bà trong tư thế ngồi muôn thuở này đã tạo nên một âm thanh từ cõi lòng bà. Tiếng tiêu trầm ngân lên nghe trong veo, mượt mà, mỏng tanh, chìm đắm... Người đàn bà rất thoải mái trong cái tư thế riêng biệt đó, bà ta nhắm nghiền hai mắt lại thổi vào tiêu một cách say sưa, đê mê, huyền bí như không còn biết có ai bên ngoài nữa... Ngon lửa vẫn bập bùng nổ tí tách soi sáng gương mặt bà, một gương mặt khắc khổ, lạnh lùng cô đơn giữa cái đêm giá buốt.

Ngưng một lát, có lẽ hết một bài, chắc là hết một nỗi niềm gì đó... rồi bà lại tiếp sang một bài khác mà tôi nghĩ không phải bài đã được soạn sẵn mà là âm thanh tự đáy lòng, từ những nỗi buồn mênh mông, từ những ký ức sâu thẳm tưởng chừng đã chôn vùi từ lâu nay sống dậy lại và lướt theo ngón tay bà. Bà vẫn nhắm nghiền đôi mắt, đầu bà hơi quay đảo nhè nhẹ như đang muốn tìm đến một hình ảnh xa xăm nào đó. Tiếng tiêu trầm lại càng trầm hơn, trầm hơn lướt đến hết cung bậc thấp nhất rồi dần dần tắt hẳn. Người đàn bà như tỉnh giấc mơ, bà ngưng thổi nhưng vẫn giữ nguyên môi đặt trên chiếc tiêu mấy giây cho nguây nguôi những nỗi niềm sâu lắng trước khi trở về với cảnh thực của đời.

Bà ta lại nhẹ nhàng cắm chiếc tiêu lên cái phên vách vừa tầm tay của mình, cầm cái bầu nước tu một hơi rồi trở về với cái xa quay cũng bên cạnh bà. Cái xa quay lại rạch rè hòa cùng tiếng nổ tí tách của ngọn lửa bập bùng. Tiếng xa quay, tiếng tiêu trầm, và bếp lửa tí tách... có lẽ những âm thanh đó sẽ đi suốt cùng bà trọn cả cuộc đời.

Sáng sớm hôm sau, tôi vừa thức dậy thì bà cũng đã chuẩn bị cơm nước cõng gùi ra rẫy. Tôi lẳng lặng đứng nhìn bà lầm lũi một mình leo lên dốc núi trước mặt đang còn sương mù bao phủ...

Và tiếng khèn bè quyến rũ...

Cuộc đời chiến đấu lại đưa tôi đến một vùng cư dân Lào bên dòng sông Mê Công. Tại đây, lần đầu tiên tôi được nghe người con trai Lào thổi khèn bè, một tập hợp âm thanh do các đoạn trúc ngắn dài khác nhau xếp lại, qua một lỗ thổi có lưỡi gà với những lỗ rất nhỏ trên các thanh trúc để bấm ngón tay, phát ra những âm thanh cung bậc. Âm thanh khèn bè trầm trầm êm êm như gợi nhớ, thôi thúc, thấm dần, len lỏi đi vào những ngóc ngách của lòng người, làm cho người nghe cứ lịm dần say mê như bị một chất men ru ngủ... Trong tất cả những cuộc vui chơi, múa hát, hội hè hay tang lễ, trên đồng ruộng hay giữa núi rừng... khèn bè đều có mặt, và có thể nói rằng, tiếng khèn bè như là hơi thở, tiếng nói, niềm vui và nỗi buồn của người Lào. Khèn bè không chỉ dành riêng cho những chàng trai, cô gái say khèn mà cả bản, cả Mường, cả người già lẫn trẻ. Tuy nhiên, phải nói rằng khèn bè ở Lào đã có vị trí quan trọng trong ngôn ngữ tình yêu. Vào những đêm trăng đẹp từ đầu hôm, một tốp khèn bè 2,3 chiếc của những chàng trai đi dạo quanh khắp làng, không có điểm dừng cố định, đó là tiếng khèn dạo chơi cho rộn bản, vui mường nhưng đồng thời là khúc dạo đầu báo hiệu của những cuộc tình tứ giao duyên với những cô gái trong làng đang ngồi quay tơ cuộn sợi đợi chờ. Về khuya, khi những ngọn đèn chai đã tắt thì chỉ còn nghe một vài tiếng khèn lẻ bạn đi lang thang chập chờn như những con đôm đốm lập lòe ánh sáng rồi đến đậu ở một gốc xoài, gốc me nào đó dưới sàn nhà của một người đẹp. Tiếng khèn bắt đầu thì thầm bộc lộ và bắt đầu từ đây không phải một đêm mà hết đêm này qua đêm khác, càng về khuya, tiếng khèn nhỏ dần lại nhưng càng tha thiết hơn. Người con gái trên sàn nghe không bỏ qua một hợp âm nào. Cô hiểu hết, hiểu tường tận những lời thổ lộ của người con trai qua tiếng khèn bè và bắt đầu trăn trở, sự rạo rực về niềm thương nhớ âm thanh của chiếc khèn bè bắt đầu ngấm thấm. Rồi đêm tiếp đêm, nếu tiếng khèn đến chậm muộn hoặc bỗng nhiên vắng lặng đi thì cũng là lúc mà người con gái mong mỏi đợi chờ. Một âm thanh khèn bè đâu đó xuất hiện, người con gái lắng nghe và biết là âm thanh của anh ấy hay không phải của anh ấy. Khi đã yêu, đôi tai người con gái tinh lắm, tinh gấp mấy lúc bình thường.

Người Lào nói: “ Làm trai Lào phải biết nói trong khèn bè và làm con gái Lào phải biết nghe tiếng nói của khèn bè”

Thật thế ư? Một anh bạn Lào giảng giải cho tôi:

- Thổi khèn bè với người yêu phải có tuần tự của nó. Đầu tiên mình thổi những bài về tình yêu thông thường khi người con trai, con gái bắt đầu gặp gỡ nhau. Đây là sự thăm dò có ý tứ. Người con trai phải biết thính nghe tiếng động trên sàn nhà của cô gái, tiếng động nào là cô không thích nghe và tiếng động nào là cô đang lắng nghe và trằn trọc không ngủ được. Khi đã được cô gái tiếp nhận thì mình tiếp tục ngôn ngữ khèn:

“ Anh với em cùng bản cùng mường,
Anh đã nghe lời khen em theo Mẹ- lời quý em theo Cha
Lời bàn qua nói lại của người con trai đầu ruộng, con gái đầu sông
Em giỏi việc ruộng đồng, em siêng việc hái măng, tìm nấm
Anh muốn cùng em uống chung bầu nước, tắm một dòng sông
Ăn cùng típ xôi của ruộng đồng hai ta cày cấy
Anh muốn mời em đi chơi trăng, cùng em đi dự hội...”

Mình phải làm cho em thức, khêu lên cho em tỉnh, mình phải đứng thổi khèn dưới sàn nhà em đêm này sang đêm khác, muỗi đốt cũng phải chịu, sên vắt bam cũng phải lì. Làm sao cho tiếng khèn của mình không chỉ lọt vào tai mà vào tận đáy tim nàng.

Cho đến một đêm tốt lành nào đó, cô gái trở mình ngồi dậy, không kịp xin phép mẹ, không kịp hỏi ý kiến cha, cô nhẹ bước đi về phía cầu thang sau nhà để đến nơi hẹn hò... Mẹ nghe mẹ mừng thầm, cha biết cha làm thinh, biết con gái mình đã tìm được người trai ưng ý.

H.N
(120/02-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách