CHÍ QUANG
Tết Nguyên đán là ngày lễ hội lớn nhất trong năm của toàn dân tộc. Những nghi lễ, tập tục ngày Tết biểu hiện đậm nét văn hóa Việt Nam, chứa đựng tổng thể văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa nghệ thuật trong đời sống.
Tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh qua những khoảnh khắc của họa sĩ Võ Quang Phát
Hơn ai hết, Bác Hồ am hiểu sâu sắc ý nghĩa các lễ nghi, phong tục Tết, tâm lý của cán bộ và nhân dân ta đối với ngày Tết của dân tộc. Trong những ngày đầu kháng chiến, dù bộn bề công việc nhưng Người vẫn dành sự quan tâm đến tất cả mọi người dân đất Việt trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Trong dịp Tết đến xuân về, chúng ta nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh và những việc Người đã làm cho dân tộc và để thấy được tinh thần lạc quan của dân tộc trong những lúc chiến tranh, để từ đó mà thêm thương yêu hơn đất nước mình, một đất nước anh hùng.
Sau 30 năm đi tìm đường cứu nước, đến tháng 2 năm 1941 vào dịp tết Nguyên đán, Bác Hồ đã về Pác Bó tỉnh Cao Bằng để lãnh đạo cuộc cách mạng trong nước. Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn biển, xa quê hương đất nước, Bác đã có 30 cái tết ở xứ người. Bao niềm thương nỗi nhớ, bao gian khổ khó khăn và nguy hiểm đến với Bác, nhưng chính trong những mùa xuân ấy, Bác đã tìm ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại những mùa xuân tươi đẹp cho mỗi chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau.
Từ khi về nước, Người đã cùng với Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo cuộc kháng chiến của dân tộc ta giành nhiều thắng lợi quan trọng. Song Người vẫn chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của mọi người mỗi khi tết đến xuân về. Tết Tân Tỵ năm 1941 là cái tết đầu tiên Bác vui tết cùng với đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc, Bác mặc bộ quần áo chàm, tay chống gậy trúc cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên đi chúc tết bà con. Đến nhà ai Bác cũng tặng dòng chữ “Cung chúc tân niên” do chính tay người viết trên giấy hồng điều, những mong mọi nhà đón tết vui vẻ hạnh phúc. Cũng từ năm ấy đến sau này, cứ mỗi dịp tết đến, vào thời khắc giao thừa, là Bác Hồ viết thơ chúc tết gửi đến đồng bào và chiến sĩ cả nước với nội dung kêu gọi quân và dân tích cực lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, thi đua giết giặc lập công.
Trong hoàn cảnh nước nhà còn nhiều khó khăn thiếu thốn, Bác viết bài “Tết Độc lập”; trong đó Người nhấn mạnh: “Suốt năm chúng ta thi đua lao động sản xuất, nhân ngày tết Nguyên đán, chúng ta vui chơi một hôm để chào xuân, việc đó cũng đúng thôi. Nhưng chúng ta nên mừng xuân một cách vui vẻ và lành mạnh. Nếu có bao nhiêu tiền đều bỏ ra mua sắm hết để đánh chén lu bù, thế là mừng xuân một cách lạc hậu, thế là lãng phí, thế là không xuân. Nên nhớ rằng hiện nay chúng ta phải cần kiệm để xây dựng nước nhà. Không nên vì một cớ gì mà quên nhiệm vụ ấy”. Những năm kháng chiến Bác đều khuyên cán bộ, nhân dân và bộ đội phải hết sức tiết kiệm, tránh lãng phí xa hoa, dồn sức cho kháng chiến kiến quốc. Tết Giáp Ngọ năm 1954, mặt trận Điện Biên Phủ đang vào giai đoạn quyết liệt để giành toàn thắng. Bác Hồ viết bài thơ chúc tết, trong đó có câu: “Quân và dân ta nhất trí kết đoàn/ Kháng chiến kiến quốc nhất định hoàn toàn thành công”.
Những năm sau này, Bác sống và làm việc ở Thủ đô Hà Nội. Mỗi khi tết đến, mặc dù bận trăm công ngàn việc, Bác vẫn dành thời gian để đi thăm hỏi và tặng quà tết cho các cơ quan, xí nghiệp, công trường, các đơn vị bộ đội, các gia đình lao động. Bác vào thăm chợ Đồng Xuân để xem không khí đón tết của nhân dân ở Thủ đô sau ngày giải phóng; rồi Bác tổ chức cho các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, các Tướng lĩnh cùng Đội cảnh vệ được vui xuân đón tết cùng Bác tại Phủ Chủ tịch. Những tình cảm sâu nặng ấy đã góp phần động viên cổ vũ quân và dân ta tiến lên giành nhiều thắng lợi mới.
Năm 1960 là năm có nhiều sự kiện chính trị đặc biệt. Trong thơ mừng xuân mới, Bác đã mở đầu bằng hai câu thơ: “Mừng Nhà nước ta 15 xuân xanh/ Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ”, Bác đã khen ngợi những nơi tiết kiệm và phê bình sự lãng phí trong dịp tết. Bác viết: “Cán bộ phải chú ý chăm lo sinh hoạt của anh em trong những ngày tết. Đối với các đồng chí công nhân cán bộ nước ngoài giúp ta, các anh em người Âu, Phi lâu nay sống đã quen với phong tục Việt Nam, nên làm sao cái tết của xây dựng phải vui hơn tết kháng chiến, song phải tránh lãng phí không cần thiết”. Lời dạy của Bác càng thắt chặt hơn tình cảm quốc tế giữa công nhân Việt Nam với chuyên gia các nước bạn.
Năm 1969, tuy sức khỏe yếu đi nhiều vì tuổi tác nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn cố gắng gặp gỡ nhân dân, các cháu thiếu niên, nhi đồng và các chiến sĩ quân đội nhân dịp năm mới. Đúng ngày mùng 1 Tết, tại đồi Vật Lại (Sơn Tây, Hà Nội), Người đã trồng cây đa trong mùa xuân cuối cùng… Từ đầu tháng Chạp, tiếng nói của Người đã bị lạc giọng, dù các bác sĩ đã tích cực chữa trị nhưng chỉ đỡ được phần nào. Vì muốn lời chúc mừng năm mới gửi tới đồng bào chiến sĩ cả nước qua máy thu thanh đêm giao thừa được rõ ràng, khỏe khoắn, Người đã luyện tiếng bằng cách đọc thơ Kiều một tuần liền. Ngày 6/2/1969 (20 tháng Chạp), tại phòng khách nhỏ trong Phủ Chủ tịch, Bác Hồ đọc to lời chúc mừng năm mới vào máy ghi âm để phát vào đêm 30 Tết tới nhân dân cả nước. Sau khi đọc xong, Người ngồi nghỉ một lúc rồi mới quay về Nhà sàn. Chiều ngày 12/2 (26 tháng Chạp), Bác Hồ gặp một số con em cán bộ đang công tác ở miền Nam, mời các cháu ăn bánh chưng, mứt tết, hỏi thăm việc học hành của các cháu và chúc các cháu mau tiến bộ để cha mẹ yên tâm công tác.
Cũng trong dịp tết này, Người còn gửi điện chúc mừng năm mới phái đoàn ngoại giao của ta đang công tác ở Paris và các bạn Pháp bằng bài thơ: “Xuân gà túc tác đến nơi; Gửi người thân thiết mấy lời mừng xuân; Gà xuân túc tác rạng đông; Đưa tin thắng lợi cờ hồng bay cao”.
Hơn 50 năm ngày Bác đi xa, đọc lại những mẩu chuyện, bài viết, và những vần thơ của Bác mỗi dịp tết đến xuân về, ta như được sống lại những năm tháng trong tình thân ái bao la của Bác; như vẫn được Người ân cần dạy bảo những vấn đề to lớn quốc gia đến những công việc bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Mùa xuân Canh Tý 2020, chúng ta cùng nhau nhớ lại những lời trong bản Di chúc lịch sử của Bác, nhớ những lời căn dặn của Người, xây dựng đất nước “càng ngày càng xuân”.
C.Q
(TCSH372/02-2020)
..............................................
Tài liệu tham khảo:
1. Theo dấu chân Bác Hồ - Nxb. Chính trị quốc gia 2014.
2. Hồ Chí Minh toàn tập - Nxb. Chính trị quốc gia 2011.
3. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử - Nxb. chính trị quốc gia 2009.
4. Hồ Chí Minh tiểu sử - Nxb. Lý luận chính trị 2006.
Sau khi hoàn tất bản thảo tập thơ Độc Hành thì nhà thơ Hải Bằng cũng “độc hành” về chốn vĩnh hằng vào ngày 7 tháng 7 năm 1998.
CÁT LÂM
Bình đẳng giới, nữ quyền, những vấn đề tưởng như mới mẻ ở nước ta nhưng thực chất vấn đề này đã được luận bàn từ những năm đầu của thế kỷ XX.
NGUYỄN QUANG HÀ
Ghi chép
Trước, và ngay cả khi vừa giải phóng, vào lúc gần tối, nếu có một người khách nào đón đường gọi xe thồ, xe xích lô xin về làng Thế Lại, thì sẽ bị chủ xe lắc đầu ngay. Bởi chủ xe sợ một điều này: có đi mà không có về. Hoặc ít nhất là cũng về hai tay trắng.
NGUYỄN QUANG HÀ
Trong kháng chiến chống Mỹ, huyện Quảng Điền ở mãi dưới sâu, phải mượn địa bàn của xã Phong Sơn huyện Phong Điền làm chiến khu.
NGUYỄN QUANG HÀ
Ngoảnh đi ngoảnh lại, vừa mới đó, vậy mà đã 100 số Sông Hương trình làng.
PHẠM HỮU THU
Ghi chép
Ngót nửa thế kỷ trôi qua, từ những chàng trai, cô gái giờ họ đã là những ông, những bà.
NGUYỄN QUANG HÀ
Hồi ký
NGUYỄN QUANG HÀ
Năm 1947 có hai chiến sĩ được cử về công tác tại chiến khu Ba Lòng. Đó là Trần Quốc Tiến, quê Quảng Trị và Hải Bằng, quê Thừa Thiên.
BẠCH DIỆP
Bút ký
Tôi từng là đứa con nít mê chuyện cổ tích và trò chơi bán đồ hàng. Khi bọn trẻ cùng lứa đánh khăng tập trận, chạy băng vườn cải mụ Tép, vượt rào bứt dưa hấu nhà ông Phường, phá nát ụ rơm cậu Dưỡng, thì tôi vẫn ngồi yên nghe ngoại kể chuyện. Chỉ có trò họp chợ, chơi mua bán với các dì mới rứt tôi ra khỏi ngoại.
NGUYỄN QUANG HÀ
Hồi ký
Mùa mưa 1968 là mùa mưa nghiệt ngã nhất. Sau trận càn lớn chưa từng có lên miền tây Thừa Thiên, địch tiếp tục phong tỏa miền núi bằng biệt kích.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Ghi chép
Từ mùa xuân năm ấy đến nay vừa tròn 30 năm, chẳng phải vì con số tròn ba thập kỷ mà tôi nhắc lại chuyện cũ. Chỉ vì từ mùa xuân năm ấy, cuộc đời tôi có một bước ngoặt mới và nhờ có mùa xuân năm ấy, cuốn sách đầu tay của tôi đã ra đời.
HỒ THANH THOAN
Đã gần 34 năm nay chúng ta không còn nghe đến tên Đoàn kịch nói Bình Trị Thiên nữa, chuyện đã trở về dĩ vãng của một thời vàng son.
CHÂU PHÙ
Thảo Am Nguyễn Khoa Vy (1881 - 1968) sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc ở Huế, tinh thông Nho học và chữ Pháp. Cụ cùng Ưng Bình Thúc Giạ Thị thành lập Hương Bình thi xã và giữ vai trò phó soái của thi xã này.
LỆ HẰNG
Bút ký dự thi
"Bánh lọc em ơi! Bánh mới hấp xong, nóng hổi luôn nì, lấy giùm chị ít chục hí?”
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Mấy năm trước, trong dịp cùng lên thăm vườn An Hiên của bà Nguyễn Đình Chi, nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đã giới thiệu cho tôi biết cụ Sa Giang Đào Thái Hanh (thân phụ của bà Nguyễn Đình Chi, tức bà Đào Thị Xuân Yến) có tập thơ "Ái Châu danh thắng" (trong "Mộng Châu thi tập") được các danh nho đương thời đánh giá rất cao.
NGUYỄN QUANG HÀ
Bút ký
BẠCH DIỆP
Bút ký dự thi
Tôi uống chậm, từng ngụm nhỏ.
VIỆT HÙNG
Ký
Tuổi hai mươi tràn trề hoài bão lớn và tuổi hai mươi... Ở thời đại nào cũng được coi là lứa tuổi hồn nhiên trong sáng, ấp ủ bầu nhiệt huyết, khát khao làm được cái gì có ích cho đời.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Ghi chép
Trời bỗng nhiên mưa, những cơn mưa cuối cùng của mùa mưa rét đậm. Với tôi, hình như mưa bao giờ cũng là cánh cửa mở cho những vũ khúc hoài niệm ùa về.
LỆ HẰNG
Bút ký dự thi
“Thấu Huế rồi.”